Thứ Sáu, 2 tháng 2, 2018

Suncor Energy



ĐẠI HỌC KINH TẾ ĐÀ NẴNG
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH

 

NHẬN XÉT CỦA THẦY
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………


 

GVHD: NGUYỄN THANH LIÊM
DANH SÁCH NHÓM:
Đỗ Vạn Tín                            B12.QNA
Lê Viết Quốc Hoàng            B12.QNA
Nguyễn Văn Trung               B12.QNA
Nguyễn Hậu                          B12.QNA

 

Quảng Nam, tháng 10 năm 2014

 
 


Text Box: CÔNG TY SUNCOR ENERGY

B. MÔI TRƯỜNG BÊN NGOÀI:

I. Môi trường toàn cầu:

1. Định nghĩa ngành:

Ngành dầu khí: Là ngành tập hợp các công ty trên toàn cầu sử dụng các máy móc thiết bị đặc thù nhằm mục đích sản xuất và cung cấp dầu và các sản phẩm liên quan.
Ngành dầu khí được chia thành 3 lĩnh vực chính:
- Upstream (thượng nguồn): gồm các hoạt động thăm dò và khai thác.
- Midstream (trung nguồn): gồm các hoạt động chiết tách và tinh lọc.
- Downtream (hạ nguồn): gồm các hoạt động cung cấp và phân phối.
Ngành dầu khí là ngành mang tính chất toàn cầu.
+ Dầu mỏ có ý nghĩa quan trọng đối với tất cả các ngành công nghiệp, duy trì nền văn minh công nghiệp hóa, và đây cũng là mối quan tâm hàng đầu của tất cả quốc gia. Dầu chiếm một tỷ lệ lớn trong tiêu  thụ năng lượng trên toàn cầu, dao động trong khoảng thấp nhất là 32% ở châu Âu và châu Á lên đến mức cao là 53% ở Trung Đông. Các vùng địa lý khác tiêu thụ năng lượng này còn có: NamTrung Mỹ (44%), châu Phi (41%), và Bắc Mỹ (40%).
+ Ngành dầu khí là ngành công giới tiêu thụ 30 tỷ thùng  (4,8 km³) dầu mỗi năm, trong đó các nước phát triển tiêu thụ nghệ cao và là con đẻ của ngành công nghiệp nặng. Tiến bộ kỹ thuật trong các lĩnh vực về tìm kiếm, thăm dò, khai thác,...có nhiều tiến bộ vượt bậc. Có thể nói ngành đang sữ dụng những công nghệ hiện đại nhất trong tất cả các lĩnh vực và đang là ngành dẫn đầu trong phát triển và ứng dụng các công nghệ ngày càng tiên tiến hơn.
+ Trong quá trình thực hiện các hợp đồng phân chia sản phẩm, các nước sở hữu dầu mỏ nhận thấy rằng cần phải giảm thiểu sự phụ thuộc vào các công ty đa quốc gia, tiếp cận trực tiếp với ngành công nghiệp này và đảm bảo an ninh năng lượng cho mình vì thế các công ty dầu mỏ ở các quốc gia ra đời. Quá trình chuyển giao năng lượng trong ngành này từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển đã diễn ra mạnh mẽ. Nhờ đó các công ty dầu mỏ quốc gia này ngày càng tham gia tích cực hơn vào thị trường dầu mỏ quốc tế. Nhiều công ty đã tiến hành hoạt động xuất khẩu và đầu tư rất có hiệu quả.
+  Những biến động về dầu và giá dầu sẽ ảnh hưởng đến tất cả mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội – chính trị của một quốc gia.
Vì mang tính chất toàn cầu nên môi trường toàn cầu cũng chính là môi trường ngành của ngành dầu khí. Chúng tôi sẽ tiến hành nghiên cứu môi trường bên ngoài của ngành dầu khí với giới hạn phạm vi như sau:
* Phạm vi nghiên cứu:
- Lĩnh vực: Chúng tôi sẽ nghiên cứu những thay đổi của môi trường toàn cầu tác động đến ngành dầu khí.
- Mức độ ảnh hưởng của ngành: Dầu khí một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, chịu tác động mạnh mẽ bởi nhiều yếu tố toàn cầu. Các yếu tố này bao gồm: sự bất ổn chính trị của các quốc gia có nguồn cung dầu lớn, sự thay đổi quyết định cung, cầu của từng chính phủ, tác động của kinh tế toàn, OPEC, sự cải tiến công nghệ, cũng như sự xuất hiện và phát triển của các nguồn năng lượng mới. Những yếu tố này cũng chính là những lực lượng dẫn dắt ngành
- Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2000 đến nay.

2. Các lực lượng dẫn dắt sự thay đổi của ngành:

2.1. Sự bất ổn về chính trị của các quốc gia cung cấp dầu:

Các quốc gia có nguồn cung dầu mỏ lớn như Iran, Afghanistan, Iraq, Libya, Syria... Hiện nay, Syria liên tục bị các cường quốc nhòm ngó và gây áp lực, thậm chí gây chiến tranh nên nguồn cung của loại khí đốt này liên tục thay đổi, trong lịch sử hầu hết lượng khai thác và xuất khẩu dầu mỏ của các quốc gia không bao giờ ổn định trong thời gian dài và luôn có sự ngắt quãng.
- Kể từ năm 2000: sau sự kiện khủng bố tấn công ở Mỹ ngày 11/9 tại trung tâm thương mại và Nhà Trắng, nền kinh tế Mỹ rơi vào khủng hoảng, sau đó lan ra khủng hoảng kinh tế toàn cầu à sự phá sản hàng loạt trong các công ty trong nhiều ngành công nghiệp à nhu cầu năng lượng về dầu mỏ giảm mạnh chỉ còn 2/3 so với tổng cầu trước đó, giá dầu thế giới cũng "rơi tự do" chỉ còn 20 USD/thùng.
- Năm 2002: Cuộc đình công tại Venezuela đã khiến cho sản lượng dầu nước này giảm mạnh. Trước khi cuộc đình công diễn ra, Venezuela chưa thể khôi phục lại mức sản lượng trước đó và đứng ở mức thấp hơn 900.000 thùng/ngày so với mức kỷ lục 3,5 triệu thùng/ngày à gây ra khủng hoảng dầu ảo khiến nhiều công ty nhập khẩu và chế biến lao đao.
- Tháng 12 năm 2002: xung đột sắc tộc tại Nigeria à biểu tình và nội chiến kéo dài à dẫn đến sụt giảm lượng dầu sản xuất vào mùa xuân và hè năm 2003.
- Năm 2003: Hoa Kỳ, Anh Quốc, Úc và Ba Lan đã xâm lược và chiếm đóng Iraq, chủ yếu tập trung vào các giếng dầu à các hoạt động khai thác, chế biến, vận chuyển dầu mỏ bị bất ổn à lượng cung dầu trên nửa Tây bán cầu thay đổi liên tục và không kiểm soát, giá dầu thô tăng từ 22 USD lên 35-36 USD chỉ trong 1 tuần và sau đó giảm xuống 27 USD trong 2 ngày.
- Tình hình chính trị ở nước Nga: Nga là đại diện duy nhất của Đông Âu có mặt trong Top 10 với 5,6% trữ lượng dầu thế giới. Các thành viên còn lại của châu lục chỉ có lượng dầu khiêm tốn, ví dụ như Anh sở hữu 0,2% trữ lượng dầu. Trong giai đoạn 2000-2005, đây là giai đoạn mà tình hình các nước Trung Đông trở nên căng thẳng đặc biệt nổi bật lên là cuộc chiến tranh Iran, Irag.. các cuộc xung đột vũ trang ở khu vực này, đã tác động mạnh đến nguồn cung dầu mỏ cho thế giới. Với nguồn cung dầu lớn, trong giai đoạn này, Nga trở thành đối tác quan trọng đối với các nước nhập khẩu, tình hình chính trị ổn định cộng với nguồn cung dồi dào là hai yếu tố quan trọng biến Nga trở thành đối tác thân thuộc đối với các nước nhập khẩu dầu mỏ.
- Xung đột ở Biển Đông:
+ Biển Đông là nơi chứa đựng nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, giàu có, nhất là dầu khí và sinh vật biển. Theo đánh giá khu vực này chứa khoảng 130 tỷ thùng dầu mỏ và 900 tỷ mét khối khí đốt tự nhiên, trong đó đã có khoảng 7 tỷ thùng dầu đã được kiểm chứng với khả năng sản xuất 2,5 triệu thùng/ngày. Hơn nữa, vùng biển Đông còn có một lượng khí đóng băng lớn, tương đương với lượng dự trữ dầu khí trên. Từ năm 2009, Trung Quốc bỗng nhiên khẳng định chủ quyền của họ trên biển với học thuyết “đường lưỡi bò” chiếm bao trùm 90% diện tích Biển đông. Trung Quốc từ thời gian này tăng cường sử dụng các biện pháp khác để hỗ trợ cho mục tiêu xác lập chủ quyền của họ như tiến hành chấp pháp tại các khu vực tranh chấp, gây sức ép một số công ty đa quốc gia đang hợp tác thăm dò và khai thác dầu khí với Việt Nam và Philippines.
+ Năm 2008, Trung Quốc đã trở thành nước tiêu thụ và nhập dầu mỏ đứng thứ hai thế giới. nước này đã nhập tới 50% lượng dầu tiêu thụ trong nước (với 3,8 triệu thùng/ngày vào năm 2008), nhưng đến năm 2020, theo dự tính sẽ tăng lên khoảng 70% và đến 2035 là khoảng 75% với khoảng 11,6 triệu thùng ngày(18). Chính vì vậy, Trung Quốc đã coi khu vực biển Đông là “Vịnh Péc Xích thứ hai” về dầu khí, là nơi có thể cung cấp nguồn năng lượng bổ sung quan trọng cho phát triển tiếp theo của nền kinh tế.
+ Tháng 4-2012, Tập đoàn khí đốt Nga Gazprom và Vietsovpetro đã thỏa thuận về việc Gazprom sẽ tiến hành cùng khai thác khí đốt tại hai lô 5.2 và 5.3 ngoài khơi Việt Nam – nơi mà Bắc Kinh cho là “nằm bên trong hải giới truyền thống” của mình và công ty Anh BP (British Petroleum) đã phải rút lui dưới áp lực của Trung Quốc.
à Trung Quốc đã sử dụng đến quân sự và sức mạnh để ngăn cản các hoạt động khai thác dầu khí của các nước trong khu vực như Việt Nam, Philippines. Sự lớn mạnh và những tham vọng vô căn cứ của Trung Quốc tại biển Đông gây ảnh hưởng xấu đến cung dầu tại đây.
Kết luận:  Những biến động về chính trị xã hội trong giai đoạn này đem đến nhiều thách thức cho ngành dầu khí thế giới:
- Về cầu: Việc khủng hoảng chính trị ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhu cầu sử dụng dầu khí, ngành dầu khí đứng trước nguy cơ cung vượt quá cầu, giá dầu mỏ đã suy giảm rõ rệt trong giai đoạn 2000-2001.
- Về cung: Ảnh hưởng của chiến tranh, xung đột: những cuộc chiến tranh mà mục tiêu chủ yếu đánh vào các nước có trữ lượng dầu mỏ lớn, đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn cung dầu cho thế giới, việc xuất khẩu của các nước cung dầu mỏ gặp khó khăn nghiêm trọng trong quá trình vận chuyển cũng như khai thác.

2.2. Sự thay đổi quyết định cung cầu, dự trữ dầu của từng Chính phủ:

Theo thông báo của Trung tâm phân tích tình trạng cạn kiệt dầu có trụ sở ở London, thì năm 2000 có 13 mỏ dầu mới được phát hiện với trữ lượng 500 triệu thùng trở lên, năm 2001 phát hiện ra 6 mỏ, năm 2002 phát hiện 2 mỏ và đến năm 2003 chỉ còn 1 mỏ thuộc tầm cỡ nói trên. Các mỏ có trữ lượng trên 500 triệu thùng cung cấp đến 80% sản lượng dầu tiêu thụ trên thị trường thế giới, do đó hiện tượng cạn kiệt dầu trở thành một nguy cơ đối với toàn cầu. Trong khi đó, nhu cầu tiêu thụ dầu không ngừng gia tăng, đặc biệt ở những nước đang phát triển, nhất là Trung Quốc và Ấn Độ. Và từ năm 2003, Mỹ đã tăng mức dự trữ dầu thô lên đến 700 triệu thùng, cũng làm cho nhu cầu sử dụng dầu trên thế giới tăng lên. Để đảm bảo an ninh năng lượng, các nước công nghiệp đều lo dự trữ dầu và tìm cách khống chế các nguồn cung dầu bằng các biện pháp quân sự, gây bất ổn định chính trị xã hội.
à Khi các chính phủ thay đổi quyết định về lượng dự trữ dầu, lượng cung cầu trong nước sẽ dẫn tới những thay đổi trong ngành, cụ thể:
- Nếu tăng sản lượng dự trữ là cơ hội để các công ty dầu khí sản xuất nhiều hơn.
- Nếu dự trữ quá nhiều sẽ chính phủ sẽ sử dụng nguồn dầu dự trữ này để đưa vào thay thế các nhà sản xuất nhằm bình ổn và kiểm soát giá dầu, ảnh hưởng tới giá bán và lợi nhuận của các công ty dầu mỏ.

2.3. Tác động của kinh tế toàn cầu:

Nền kinh tế thế giới ngày càng tăng trưởng mạnh, nhu cầu sử dụng dầu thô cũng tăng theo; đặc biệt là nhu cầu dầu thô của Trung Quốc, Mỹ và Ấn Độ trong đó Trung Quốc chiếm đến 40% lượng dầu tăng của toàn thế giới. Năm 2003, Trung Quốc đã vượt Nhật Bản và trở thành quốc gia thứ hai tiêu thụ dầu thô trên thế giới, sau Mỹ. Nhìn chung các nguồn năng lượng của Trung Quốc tương đối phong phú nhưng chủ yếu là than đá, còn dầu mỏ và khí đốt là để phục vụ nhu cầu trong nước vẫn còn thiếu hụt. Trong 10 năm qua mức tiêu thụ dầu mỏ của Trung Quốc tăng khoảng 6%/năm trong khi sản lượng dầu chỉ tăng 1,5%. Chính sách truyền thống về tự cung tự cấp dầu mỏ nay đã trở thành dĩ vãng. Là nước nhập khẩu lớn thứ hai trên thế giới sau Mỹ và chiếm 40% mức tăng tiêu thụ dầu mỏ thế giới, hàng ngày Trung Quốc nhập khẩu khoảng hai triệu thùng, tương đương 270.000 tấn. Chính phủ Trung Quốc dự báo đến năm 2030, con số này sẽ tăng lên 9,8 triệu thùng (1,35 triệu tấn). Đến năm 2020, theo như cam kết tăng gấp bốn lần GDP hiện nay tại Đại hội Đảng thứ XVI, Trung Quốc sẽ nhập khẩu khoảng 2,5 triệu tấn dầu mỗi năm và trở thành quốc gia nhập khẩu dầu lớn nhất trên thế giới.   
à  Đối với các cường  quốc đứng đầu trong tiêu thụ dầu mỏ (Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Anh, Pháp …), khi nền kinh tế phát triển ổn định, nhu cầu về loại năng lượng này cũng phát triển theo. Đối với ngành cung cấp dầu mỏ, đây chính là cơ hội cực kỳ lớn, nhu cầu càng cao.

2.4. Tác động của OPEC:

Các nước thành viên OPEC khai thác vào khoảng 40% tổng sản lượng dầu lửa thế giới và nắm giữ khoảng ¾ trữ lượng dầu thế giới. OPEC có khả năng điều chỉnh hạn ngạch khai thác dầu lửa của các nước thành viên và qua đó có kh năng khng chế giá du. Mục tiêu chính thức OPEC là ổn định thị trường dầu thô, bao gồm các chính sách khai thác dầu, ổn định giá dầu thế giới và ủng hộ về mặt chính trị cho các thành viên khi bị các biện pháp cưỡng chế vì các quyết định tới OPEC. Nhưng thật ra nhiều biện pháp được đề ra lại có động cơ bắt nguồn từ quyền lợi quốc gia, thí dụ như trong các cơn khủng hoảng dầu, OPEC chẳng những đã không tìm cách hạ giá dầu mà lại duy trì chính sách cao giá trong thời gian dài. Sau tháng 1/2002, OPEC cắt giảm 1,5 triệu thùng/ngày và các nước ngoài OPEC cũng tham gia việc cắt giảm sản lượng trong đó có cả Nga với mức cắt giảm cam kết là 462.500 thùng/ngày. Điều này đã đem lại kết quả mong muốn của OPEC khi mà giá dầu tăng lên mức 25USD/thùng vào tháng 3/2002.Vào giữa năm 2002, các nước ngoài OPEC đã khôi phục lại mức sản lượng đã cắt giảm tuy nhiên giá vẫn tiếp tục tăng và dự trữ dầu của Mỹ đạt mức thấp nhất trong 20 năm.
OPEC tăng sản lượng thêm 2,8 triệu thùng/ngày vào tháng 1 và tháng 2/2003 nhằm khôi phục ổn định giá dầu.
Thông qua bảng giá từ năm 2000 – 2005 chúng ta càng thấy rõ điều này, xu hướng giá cả dầu mỏ ngày càng tăng và có xu hướng tăng nhanh ở các năm tiếp theo:

Năm
Giá USD/thùng
Tăng (%)
Tăng (USD)
2000
30,26
-
-
2001
25,97
-14,19
-4,29
2002
26,15
0,70
0,18
2003
30,99
18,53
4,85
2004
41,47
33,80
10,47
2005
56,70
36,74
15,24
                                                Nguồn: Reuters Xtra3000
à  Mục tiêu của OPEC thật ra là một chính sách dầu chung nhằm để giữ giá. OPEC dựa vào việc phân bổ hạn ngạch cho các thành viên để điều chỉnh lượng khai thác dầu, tạo ra khan hiếm hoặc dư dầu giả tạo nhằm thông qua đó có thể tăng, giảm hoặc giữ giá dầu ổn định. Có thể coi OPEC như là một liên minh độc quyền (cartel) luôn tìm cách giữ giá dầu ở mức ổn định và có lợi nhất.

2.5. Sự cải tiến công nghệ:

Công nghệ có tầm quan trọng, ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển của các lĩnh vực kinh tế trên toàn cầu. Vì vậy, sự cải tiến công nghệ đã tạo ra những tác động tích cực đến việc phát hiện, khai thác và chế biến trong ngành dầu khí.
Trong hơn một thế kỷ, công nghệ mới đã thay đổi cách dự trữ được xác định, phát triển và sản xuất, dẫn đến một sự tăng trưởng lớn trong dự trữ và cung cấp.

a. Công nghệ khoan dầu mới:

Năm 2001, công nghệ khoan dầu mới đã được các quốc gia hàng đầu như: A-rập Xêut, Nga, Trung Quốc,…sử dụng, có thể làm tăng nguồn cung cấp dầu mỏ của thế giới gấp sáu lần với 10,2 nghìn tỷ thùng (theo báo cáo của công ty nghiên cứu thị trường Lux Research). Công nghệ bẻ gãy thủy lực được các nhà khoa học tìm ra vào năm 1947 và thử nghiệm thành công vào 1949  tại mỏ Hugoton, phía tây nam Kansas nhưng công nghệ này đã gây ra những tác động xấu đến môi trường: ô nhiễm nguồn nước ngầm, ô nhiễm không khí, ảnh hưởng đến sức khỏe con người nên đã bị cấm tại nhiều quốc gia. Đến giai đoạn hiện nay, sự cải tiến về công nghệ đã giảm thiểu tính tiêu cực của nó và được đưa vào sử dụng rộng rãi.

b. Công nghệ EOR:

 Là  quy trình dựa vào việc sử dụng các hóa chất, năng lượng nhiệt, châm polyme và hợp chất kiềm vào các mỏ dầu để giúp nới lỏng dầu từ thành đá và đẩy nó vào giếng để thu hồi dầu thô. Hóa chất được sử dụng cho EOR bao gồm các chất hoạt động bề mặt để làm giảm sự phân cực giữa bề mặt tiếp xúc giữa dầu và nước, dầu và đá tiếp giáp. Lượng dầu thô còn lại trong hồ chứa chiếm khoảng 67% tổng trữ lượng dầu khí sau khi khai thác. Năm 2003, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Trung Quốc đi đầu trong phương pháp này, mang lại sự hiệu quả hơn 20% so với chỉ ngập giếng nước để đưa dầu lên bề mặt. 

c. Vi sinh vật:

Sử dụng các vi sinh vật  chọn lọc có thể đi sâu vào khe có độ thẩm thấu cao để phá vỡ các loại dầu nặng và tạo ra khí mêtan, có thể được bơm vào giếng để đẩy ra dầu nhẹ. Công nghệ này có từ những năm 1950 nhưng mới được hoàn thiện và đưa vào sử dụng vào năm 2002. Một thử nghiệm với vi sinh vật EOR ở Malaysia đã làm tăng sản lượng dầu của nước này lên 47% so với năm tháng trước. 

d. Vệ tinh nhân tạo:

Vào năm 2000, Trung tâm phát triển truyền hình vệ tinh Boeing đã xây dựng được 40% trong số hơn một trăm vệ tinh phục vụ trên toàn thế giới. Những hình ảnh được cung cấp từ vệ tinh đã giúp lập ra một bản đồ quang phổ ánh sáng xung quanh vùng có dầu mỏ. Từ đó cho phép việc thăm dò, phát hiện ra các giếng dầu một cách dễ dàng hơn.
* Kết luận:
Những công nghệ tiến bộ trong những năm trong giai đoạn 2000-2005 đã đem đến cho ngành công nghiệp dầu khí nhiều cơ hội như: nâng cao năng suất, khai thác những nơi có địa hình hiểm trở, làm tăng sản lượng khai thác, phát hiện ngày càng nhiều những mỏ dầu và bằng những công nghệ cũ vẫn chưa thể phát hiện ra được.
- Tạo tiền đề cho việc nghiên cứu và phát triển những công nghệ mới phục vụ cho việc khai thác và chế biến dầu mỏ.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các nước nhỏ tiếp cận những công nghệ khai thác mới

2.6. Sự phát triển của năng lượng thay thế: Chiếm 28% trong tổng phát triển năng lượng của thế giới (2012).

a. Năng lượng nguyên tử:

Từ những năm 40 của thế kỉ XX, năng lượng nguyên tử tăng chậm và giữ ở mức 10- 14% tổng năng lượng sử dụng của toàn thế giới. Dự báo tỷ trọng của nó sẽ đạt 22% ở thập niên 20 của thế kỉ XXI và có xu hướng giảm dần từ nửa sau thế kỉ XXI vì nhiều lý do.. Đến năm 2005, năng lượng hạt nhân cung cấp 2,1% nhu cầu năng lượng của thế giới và chiếm khoảng 15% sản lượng điện thế giới, trong khi đó chỉ tính riêng Hoa Kỳ, Pháp, và Nhật Bản sản lượng điện từ hạt nhân chiếm 56,5% tổng nhu cầu điện của ba nước này. Đến năm 2007, theo báo cáo của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) có 439 lò phản ứng hạt nhân đang hoạt động trên thế giới, thuộc 31 quốc gia. Chính những phát triển vượt bậc đã khiến năng lượng hạt nhân trở nên phổ biến và rẻ hơn nhiều (trung bình khoảng 63%) so với năng lượng dầu mỏ.

b. Các nguồn năng lượng “xanh”:

Các nước đang phát triển sẵn sàng đầu tư nhiều hơn vào nguồn năng lượng 'xanh' hơn là các quốc gia phát triển. Theo một cuộc khảo sát mới đây, sự hỗ trợ của chính phủ trong lĩnh vực năng lượng tái sinh ở Liên minh châu Âu, Úc và Mỹ đang tăng lên đáng kể. Brazil, Trung Quốc, Nam Phi, Thổ Nhĩ Kỳ, Thái Lan, Chile lại ngày càng đầu tư nhiều hơn vào việc phát triển năng lượng 'xanh'.

c. Năng lượng mặt trời:

Chile đang xây dựng nhà máy điện năng lượng mặt trời lớn nhất thế giới không cần nguồn trợ cấp nhà nước. Trung Quốc áp dụng những ưu đãi thuế tương ứng như một phần của kế hoạch nghiên cứu phát triển công nghệ nâng tổng công suất các nhà máy điện năng lượng mặt trời đến 35 GW vào năm 2005.. Ở Nga, mặc dù sự hiện diện của trữ lượng lớn dầu và khí đốt giá rẻ, năng lượng thay thế cũng nhận được sự chú ý đáng kể. Ngày càng có nhiều đèn hiệu giao thông với các tế bào năng lượng mặt trời được dùng trong các thành phố.

d. Năng lượng sinh khối:

Là khí sinh vật được tạo ra từ việc lên men các phế thải hữu cơ nông nghiệp và sinh hoạt, nhằm một mặt đảm bảo nhu cầu đun nấu, thắp sáng cho cư dân nông nghiệp và mặt khác, góp phần bảo vệ môi trường nông thôn. Các nước Mỹ La – tinh và Nga dẫn đầu trong công nghệ sinh khối. Năm 2005 các nước này ký bản cam kết ghi nhớ tăng sản lượng năng lượng không khói 4% mỗi năm từ 2005 đến 2030.

đ. Nguồn năng lượng gió:

Việc khai thác và đưa gió vào sản xuất điện năng đã và đang được tiến hành ở nhiều nước như Tây Âu, Bắc Âu, Hoa Kỳ, Ấn Độ.... Ở một số nước như Đức, Áo lượng điện từ năng lượng gió chiếm đến 45 – 67% sản lượng điện toàn quốc gia.

e. Năng lượng địa nhiệt:

Ở sâu trong lòng đất cũng được khai thác và sử dụng dưới dạng nhiệt và điện. Tiềm năng địa nhiệt ở một số nước rất lớn (như Ireland, Hy Lạp, Pháp, Italia, Hoa Kỳ, Nhật Bản...) đã tạo điều kiện cho việc khai thác rộng rãi nguồn năng lượng này.
- Đe dọa: Sự phát triển của các nguồn năng lượng thay thế khiến cho nhu cầu của các quốc gia về dầu mỏ và các sản phẩm liên quan giảm đang kể, gây sức ép lên các công ty khai thác và chế biến dầu mỏ.
- Khuynh hướng: Trong tương lai, các nguồn năng lượng này có khuynh hướng được khai thác và đem vào sử dụng nhiều hơn, thay thế cho nguồn năng lượng dầu mỏ đang dần cạn kiệt, góp phần vào việc bảo vệ môi trường sinh thái, giảm thiểu những tác động xấu lên lòng đất.

2.7. Môi trường tự nhiên:

Những nhân tố tự nhiên như bão, động đất, sóng thần và sự cản trở nguồn nguyên liệu cho quá trình lọc dầu, đặc biệt là ở những mỏ dầu ở vùng duyên hải. Các hoạt động khai thác dầu mỏ thường diễn ra ở những địa hình phức tạp, khó khăn trong khai thác và vận chuyển. Các giàn khoan trên biển, sa mạc, Bắc Cực thường xuyên bị tấn công bởi các cơn bão, sóng thần. Chính những yếu tố này sẽ làm ảnh hưởng đến giá sản phẩm liên quan đến cung cầu dầu mỏ và trực tiếp ảnh hưởng lên chi phí lọc dầu. Theo Petronas (một công ty dầu khí thuộc sở hữu của Malaysia), môi năm ngành dầu khí trên toàn cầu chịu tổn thất xấp xỉ 8 tỉ USD do các tác động từ thiên tai (hội nghị bình ổn dầu khí toàn cầu 2002), đặc biệt tập trung ở các quốc gia như Nga, Trung Quốc, Malaysia, …
Khu vực Bắc Mỹ, đặc biệt là Vịnh Mehico, một nơi có khá nhiều mỏ dầu, đồng thời cũng là nơi mà thường xuyên chịu ảnh hưởng của thiên tai, nhất là các cơn bão… đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến cung cầu, cũng như vấn đề cạnh tranh của các công ty ở khu vực Bắc Mỹ với các khu vực khác. Theo những số liệu thì từ năm 2000- 2005 đã có 5 cơn bão mạnh đã tấn công vào khu vực này làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến các mỏ dầu ở khu vực này.
Tháng 10 năm 2002, Bão Liti tấn công vịnh Mehico phá huỷ 6 giàn khoan, 31 giàn khoan khác bị hư hỏng nặng không thể khai thác, 2 giàn khoan bị lật úp.
Siêu bão Ivan năm 2004: 7 giàn khoan bị phá hủy và sáu thiệt hại lớn; 5 giàn khoan với thiệt hại lớn, bao gồm cả Ensco 64 (được xem là giàn khoan chuẩn chịu được mọi thời tiết khắc nghiệt nhất).
Ngày 10 tháng 7 năm 2005: bão Dennis đã khiến dự án xây dựng giàn khoan BP Thunderhorse giàn khoan lớn nhất từng được chế tạo, được dự kiến hoàn thành cuối năm 2005 nhưng phải đến 2007 mới có thể đưa vào sử dụng do hầu hết các thiết bị đều bị phá huỷ.
Vào năm 2005, cơn bão Katrina tấn công các giàn khoan dầu của Mexico làm sản lượng các nhà máy lọc dầu tại Mỹ giảm 4,5 triệu thùng/ngày khiến giá dầu tăng 3$ một thùng lên tới mức 70.8 $/thùng và giá xăng đạt 5$/gallon.
Ngày 28 tháng chín năm 2005, Cơn bão Rita khiến 66 giàn trụ bị phá hủy, với hơn 32 trụ thiệt hại nặng nề. 13 Modus đã bị phá vỡ, 1 giàn khoan tự nâng bị đánh chìm, với 7 giàn khoan và 2 bán tàu ngầm gặp thiệt hại lớn không thể sửa chữa. (Thống kê từ Khoáng sản Dịch vụ quản lý).
à Thiên tai ảnh hưởng tới cung dầu trên khu vực và toàn cầu trong quá trình khai thác, vận chuyển, tinh chế.
Không chỉ vậy, những thiên tai còn ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của những công ty có mỏ dầu đặt trong khu vực này, sau những cơn bão là hoàn loạt các chi phí: chi phí sữa chữa, phục hồi, chi phí lắp đặt hệ thống mới, chi phí cho nghiên cưu công nghê gia tăng, làm cho chi phí sản xuất của các công ty dầu mỏ khu vực này gia tăng nhanh chóng, làm giảm sức cạnh tranh trên thị trường thế giới.

Nóng lên toàn cầu: Từ thế kỉ 20, nhiệt độ trung bình của không khí gần mặt đất đã tăng 0,6 ± 0,2. Khí hậu toàn cầu đang nóng lên và bất thường khiến nhu cầu sử dụng năng lượng cho sinh hoạt tăng đáng kể.

Nghị định thư Kyoto: là một nghị định liên quan đến Chương trình khung về biến đổi khí hậu mang tầm quốc tế của Liên hiệp quốc với mục tiêu cắt giảm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Bản dự thảo được kí kết vào ngày 11 tháng 12 năm 1997 tại Hội nghị các bên tham gia lần thứ ba khi các bên tham gia nhóm họp tại Kyoto, và chính thức có hiệu lực vào ngày 16 tháng 2 năm 2005. Có hơn 100 quốc gia đã tham gia nghị định này, kể từ tháng 9/2011 đã có khoảng 191 nước kí kết tham gia chương trình này. Trong đó có khoảng 36 nước phát triển (với liên minh Châu Âu được tính là một) được yêu cầu phải có hành động giảm thiểu khí thải nhà kính mà họ đã cam kết cụ thể trong nghị trình (lượng khí này chiếm hơn 61.6% của lượng khí của nhóm nước Annex (nhóm nước phát triển tham gia Kyoto) cần cắt giảm). Nghị định Kyoto chính thức có hiệu lực à giảm khí thải của các nước phát triển có nhu cầu dầu cao à Giảm mức sử dụng vào các loại năng lượng có khí thải mà đặc trưng là dầu mỏ và khí đốt à Giảm mức tổng cầu về dầu khí trên toàn cầu.
3. Kết luận:
* Về môi trường toàn cầu:
- Ngành dầu khí bị tác động mạnh mẽ bởi nhiều lực lượng dẫn dắt.
- Hướng thay đổi của các lực lượng tạo ra đe dọa lớn cho ngành dầu khí như:
+ Sự bất ổn chính trị của các quốc gia cung cấp dầu mỏ ngày càng gia tăng.
+ Khuynh hướng sử dụng các sản phẩm thay thế ngày càng nhiều.
+ Sự ô nhiễm môi trường và diễn biến ngày càng phức tạp của thiên tai là mối đe dọa lớn cho ngành.
+ Xu hướng thay đổi của các lực lượng: sự thay đổi trong chính sách của các chính phủ, sự phát triển công nghệ là cơ hội lớn cho sự phát triển của ngành.
* Về sức hấp dẫn của ngành dầu khí:
Ngành dầu khí hiện đang có tiềm năng tăng trưởng cao, điều này thể hiện rõ nhất là nhu cầu, lượng tiêu thụ của khách hàng và mức cung dầu của các công ty luôn tăng hằng năm. Hơn nữa, dầu khí là nhiên liệu không thể thay thế trong nhiều ngành công nghiệp sản xuất khác, trong ngành giao thông vận tải…nên nhu cầu về nguồn năng lượng này ít biến động mạnh so với dự đoán.
- Ngành dầu khí là ngành có tính sinh lợi rất cao, tuy nhiên, rào cản nhập ngành quá lớn khiến nó trở nên kém hấp dẫn đối với các doanh nghiệp ngoài ngành.
- Tính cạnh tranh trong ngành là rất cao, thể hiện qua các cuộc cạnh tranh gay gắt của các công ty dầu khí lớn trên thế giới. Mặc dù rào cản nhập cuộc cao, nguy cơ  từ các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng không nhiều, đe dọa từ sản phẩm thay thế cũng thấp nhưng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng nhóm chiến lược, và các doanh nghiệp trong các nhóm chiến lược khác nhau diễn ra rất mạnh mẽ.

II. Môi trường vĩ mô:

* Phạm vi nghiên cứu:
Lĩnh vực: Chúng tôi nghiên cứu những thay đổi của môi trường vĩ mô trong ngành công nghiệp dầu khí.
Không gian: Canada.
Thời gian nghiên cứu: Từ 2000 đến nay.

1. Luật pháp:

Quy định mới về Hydrocarbon và khai thác mỏ:

Liên quan trực tiếp đến việc thăm dò và khai thác khoáng sản và hydrocarbon ở Canada, Chính phủ đã đề ra quy định việc khai thác mỏ chỉ áp dụng cho các công ty có pháp nhân được thành lập theo luật pháp của quốc tế có chi nhánh, liên kết hoặc có công ty con tại Canada.
Năm 2003, chính phủ Canada tách biệt trách nhiệm quản lý của công ty dầu Suncor, giao cho các cơ quan quốc gia Hydrocarbons điều hành quá trình cạnh tranh của Canada, cho phép Suncor cạnh tranh trực tiếp với các công ty nước ngoài trong ngành dầu khí. Công ty nước ngoài có thể chịu đến 100 phần trăm vốn đầu tư và các hoạt động rủi ro trong tất cả các hợp đồng thăm dò và sản xuất. Công ty dầu mỏ có thể có được quyền khai thác các lĩnh vực trong 30 năm hoặc cho đến khi cạn kiệt cũng như để gia hạn hợp đồng liên kết trước đó.
Thuế suất được quy định dựa trên quy mô của các dự án với mức thuế suất thấp nhất là 5% trong lĩnh vực dầu trong khi với các lĩnh vực khác là trên 30%. Những cải cách đã giúp thay đổi sự quan tâm đến lĩnh vực khai thác dầu của Canada với một kỷ lục đạt được 162 hợp đồng thăm dò và sản xuất ký kết từ năm 2006 đến năm 2010. Kết quả làm cho sản xuất dầu ở Canada đã tăng gần gấp đôi kể từ năm 2007, đạt 984.000 thùng một ngày của tháng 12 năm 2012. Mục tiêu của chính phủ là để sản xuất ít nhất 1,5 triệu thùng một ngày vào năm 2015.[1]
Nhận xét:
- Việc đặt ra các quy định về khai thác mỏ tạo ra ràng buộc cho các công ty dầu khí tại Canada đi vào khuôn khổ trong việc khai thác có hiệu quả hơn và dự trữ nguồn tài nguyên ở một mức cho phép, giảm thiểu mức lãng phí để có đủ khả năng đáp ứng nhu cầu của quốc gia về dầu mỏ.
- Các chính sách của chính phủ Canada không những có tác dụng kêu gọi đầu tư từ nước ngoài về vốn lẫn công nghệ cho các ngành công nghiệp còn lạc hậu trong nước mà còn mở rộng thị trường, đưa 1 lượng lớn sản phẩm của Canada ra thị trường quốc tế.

2. Môi trường kinh tế:

Tỷ lệ tăng trưởng GDP:

- Từ năm 2001 đến năm 2007:
Trong khoảng thời gian này GDP của Canada có xu hướng tăng nhanh:

Năm
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
Tỷ lệ tăng trưởng  TB GDP
1,43
2,52
3,20
5,10
5,45
5,55
6,95
Với tốc độ tăng trưởng đều trong giai đoạn này đã đem đến những cơ hội nhất định cho ngành dầu khí của Canada:
GDP tăng lên sẽ kéo theo sự tăng lên về nhu cầu sử dụng các sản phẩm dịch vụ, sự phát triển mạnh mẽ của các ngành công nghiệp làm cho nhu cầu sử dụng nhiên liệu cũng tăng tạo điều kiện để ngành dầu khí bước vào giai đoạn tăng trưởng mạnh.
Từ năm 2008 – 2012:
Trong khoảng thời gian này, tình hình tăng trưởng kinh tế của Canada biến thiên mạnh:

Năm
2008
2009
2010
2011
2012
Tỷ lệ tăng trưởng  TB GDP
5,40
0,98
3,60
6,15
5,05
Trong hai năm 2008- 2009 tình hình khủng hoảng kinh tế toàn cầu (nguyên nhân xuất phát cuộc khủng hoảng tài chính của Hoa Kỳ 2007-2009) đã tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế của nhiều nước trên thế giới và không ngoại trừ Canada. Tỷ lệ tăng trưởng GDP  đã giảm rõ rệt từ 5,40 (2008) xuống 0,98 (2009). Tình hình kinh tế biến động trong giai đoạn  này đã tạo ra mối đe dọa cho sự phát triển ngành dầu khí:
Khủng hoảng kinh tế đã tác động đến tất cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, hàng loạt doanh nghiệp đóng cửa, phá sản… điều này khiến cho ngành dầu khí đối mặt với những khó khăn nghiêm trọng trong việc tiêu thụ ở Colombia, ảnh hưởng đến doanh số của ngành do nhu cầu với dầu khí giảm rõ rệt.
Trong những sau 2010-2012  tình hình tăng trưởng kinh tế ở Colombia đã có những tăng trưởng đáng kể. Đây là một cơ hội để ngành dầu khí phát triển trở lại

Thuế:

Năm 2003, chính phủ đưa ra quy định các công ty dầu khí phải trả thuế và trả tiền bản quyền để đối lấy quyền khai thác và sản xuất hydrocacbon. Như vậy, quyền hạn của cơ quan thuế đã được tăng cường. Thuế suất được quy định dựa trên quy mô của các dự án với mức thuế suất thấp nhất là 5% trong lĩnh vực dầu khí và trên 30% với các lĩnh vực khác. Những cải cách đã giúp thay đổi sự quan tâm đến lĩnh vực khai thác dầu của Canada với một kỷ lục đạt được 162 hợp đồng thăm dò và sản xuất ký kết từ năm 2006 đến năm 2010. Kết quả làm cho sản xuất dầu ở Canada đã tăng gần gấp đôi kể từ năm 2007, đạt 984.000 thùng một ngày của tháng 12 năm 2012. Mục tiêu của chính phủ là để sản xuất ít nhất 1,5 triệu thùng một ngày vào năm 2015.
Cơ sở tính thuế: các công ty Canada bị đánh thuế dựa trên thu nhập trên toàn thế giới của họ, trong khi các công ty nước ngoài chỉ đánh thuế vào những gì họ kiếm được trong phạm vi Canada.
Kết luận: Áp dụng mức thuế suất thấp trong lĩnh vực dầu khí cùng với những chính sách ưu đãi tạo thuận lợi cho ngành dầu khí nâng cao, mở rộng đầu tư và dễ dàng thu hút đầu tư nước ngoài vào các dự án khai khoáng, chế biến với giá trị cao.

Lãi suất:

Tại Canada, lãi suất ngân hàng được Ngân hàng nhà nước quy định rõ rang, trong giai đoạn 2000- 2005 lãi suất của Canada có xu hướng giảm  mạnh.
Trong giai đoạn này lãi suất đã giảm từ 12% năm 2000 xuống còn 6% năm 2005, lãi suất giảm đã tạo cơ hội cho sự phát triển của nền kinh tế phát triển mạnh mẽ: các doanh nghiệp có cơ hội vay vốn đầu tư sản xuất chế biến, đồng thời việc giảm lãi suất cũng tạo điều kiện cho việc hình thành các doanh nghiệp… đóng góp chung vào sự tăng trưởng kinh tế. Có thể thấy rõ sự phát triển mạnh mẽ trong giai đoạn này thông qua chỉ số GDP từ năm 2000 đến 2005 đã tăng lên đáng kể.

Cơ hội cho ngành dầu khí: Lãi suất giảm làm cho việc vay vốn của công ty thuận lợi, chi phí đầu vào càng giảm, các doanh nghiệp trong ngành dầu khí có cơ hội vay vốn để đầu tư về cơ sở vật chất, công nghệ  tiên tiến, tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai thác và chế biến dầu mỏ.

Cát dầu lửa, hay các lớp cát hắc ín, là một nguồn tài nguyên độc đáo của Canada. Với trữ lượng dầu cát khoảng 173 tỷ thùng, Canada đứng thứ hai thế giới sau mức 230 tỷ thùng của Saudi Arabia. Chỉ riêng trữ lượng dầu mỏ loại này của Canada cũng đủ để đáp ứng nhu cầu dầu mỏ của thế giới trong 100 năm tới. Hiện dự án khai thác dầu cát tại Canada được xem là dự án năng lượng lớn nhất thế giới với nguồn đầu tư dồi dào, ngày càng gia tăng. Nhưng đây cũng được xem là nguyên nhân cơ bản làm tăng gấp ba lần lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính khi công nghệ thu giữ khí carbon trong ngành này vẫn chưa phát triển tương xứng. Theo tổ chức môi trường Pembina Institute, chiết xuất dầu từ cát dầu tạo ra nhiều hơn hai đến ba lần carbon dioxide so với bơm dầu ra khỏi một giếng dầu thông thường. Do vậy, EU dự định sẽ biểu quyết thông qua đề xuất về quy định mới với chất lượng nhiên liệu; theo đó, dầu cát khai thác tại miền Tây Canada sẽ bị xếp vào dạng nhiên liệu gây phát thải khí nhà kính nhiều hơn 22% so với dầu thông thường trung bình và bị hạn chế sử dụng trên lãnh thổ EU.

3. Phân tích tính hấp dẫn của ngành:

3.1. Phân tích mô hình 5 lực lượng cạnh tranh:
3.1.1. Đối thủ cạnh tranh tiềm tàng:
a. Trung thành thương hiệu:
Rào cản này không bảo vệ cho những công ty dầu mỏ đang tồn tại. Cụ thể là không có sự khác biệt sản phẩm đối với các nhà cung cấp khác nhau, dầu là một sản phẩm hàng hóa không có chi phí chuyển đổi mà người mua phải đối mặt khi cần phải chuyển sang một nhà cung cấp khác. Người tiêu dùng có thể lựa chọn ngẫu nhiên 1 nhà cung cấp và hầu như không có chi phí khi chọn lựa hay thay đổi sự chọn lựa. à Đe doạ cho những công ty hiện tại.
Mặc dù dầu khí là 1 ngành hấp dẫn, lợi nhuận cao nhưng số lượng công ty tham gia vào ngành này không nhiều. Lý do là:
b. Chi phí đầu tư:
Hầu hết các khoản đầu tư cho dầu khí từ thăm dò, khai thác, vận chuyển, tinh chế, phân phối đều chiếm 1 khoản vốn khổng lồ đòi hỏi 1 tiềm lực về tài chính lớn. Ví dụ về chi phí như:
Thăm dò để tìm ra 1 mỏ dầu/giếng dầu vài tỷ đô la cho những vùng được xem là tương đối dễ dàng.
à Đây là thách thức không nhỏ đối với các công ty vừa và nhỏ, thiếu kinh nghiệm và công nghệ.
- Chi phí cho 1 giàn khoan trên đất liền là khoảng 1,5 cho giàn khoan đã sử dụng hoặc hơn 10 triệu USD cho một cái mới.[2]
- Giàn khoan dành cho địa hình ngập nước có xà lan: 10 đến 100 triệu $ 
Giàn khoan ngoài khơi vùng nông: 75-175 triệu.
- Giàn khoan ngoài khơi có mức nước sâu: từ 100 đến 400 triệu USD để xây dựng.
Đầu tư cho nguồn nhân lực đòi hỏi thời gian trung bình từ 8 – 10 năm, chi phí thực tập và hướng dẫn cũng tương đối lớn, khoảng 20000$/đào tạo 1 lao động trung bình trong ngành dầu khí. Theo WorkGlobal, nguồn nhân lực hiện nay chỉ đáp ứng 32% tổng nhu cầu về lao động trong ngành dầu khí, đặc biệt trong chuyên ngành.
Cơ quan năng lượng quốc tế (IEA, 2008) báo cáo rằng chi phí đơn vị trong ngành công nghiệp ở thăm dò và khai thác dầu đã tăng lên đáng kể ở Nam Mỹ, trong thập kỷ qua (trung bình tăng 90% từ năm 2000 đến năm 2007), ở Canada là 60%. Điều này không chỉ bao gồm chi phí cho thăm dò của vùng mới, cũng như cho khoan, dịch vụ mỏ dầu, lao động có tay nghề, nghiên cứu khoa học, vật liệu và năng lượng, tất cả đều tạo ra những rào cản đáng kể cho đối thủ tiềm năng.
c. Các qui định của chính phủ:
Dầu khí được xem là nguồn tài nguyên quý giá, là tài sản của một quốc gia. Do đó, hầu hết các chính phủ các nước đều quản lý việc thăm dò, khai thác chặt chẽ, 1 số nước có sản lượng lớn thành lập hẳn 1 cơ quan chính quyền để quản lý các vấn đề liên quan tới nguồn năng lượng này như Arap – Xeut, Liên Bang Nga, Mỹ hay các nước Mỹ la tinh. Thông qua việc cấp phép hay các yêu cầu đặc biệt, chính phủ có thể kiểm soát sự thâm nhập vào một ngành.
Canada, kể từ năm 2003, chính phủ nước nước này đã thông qua hàng loạt các quy định mới về tổ chức khai thác dầu mỏ trên lãnh thổ Canada, chính phủ yêu cầu phải có tư cách pháp nhân tại Canada mới được phép hoạt động trong linh vực dầu khí, nếu là công ty nước ngoài thì phải có chi nhánh hay công ty con có trụ sở toàn quyền đặt tại Canada.
à Đòi hỏi các công ty phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của chính phủ về khai thác, môi trường, thuế mới có thể kinh doanh lâu dài.
d. Lợi thế chi phí tuyệt đối:
Ngành dầu khí có 1 đặc điểm đặc trưng là có tính công nghệ khá cao. Hầu hết các phạm vi hoạt động của dầu khí đều cần có tính linh hoạt và kỹ thuật đặc biệt. Các công nghệ trong thăm dò, khai thác hay tinh chế dầu mỏ được đánh giá là phức tạp, cần có thời gian nghiên cứu dài hạn, để sử dụng được thì cũng cần có kinh nghiệm chuyên môn sâu, trong khi đó ít có công ty dầu khí nào tiết lộ các công nghệ của họ ra bên ngoài à do đó các công ty muốn gia nhập ngành khó có thể tiếp cận được các công nghệ cao này.
3.1.2. Cạnh tranh trong ngành:
Các đối thủ cạnh tranh trong ngành công nghiệp dầu mặc dù khác nhau về một vài điểm nhưng điểm chung là đại diện cho các công ty quốc tế lớn kiểm soát độc quyền, có thể hạn chế nguồn dầu, sở hữu nhiều bí quyết công nghệ phức tạp, đồng thời sở hữu trữ lượng dầu mỏ. Hầu hết các công ty dầu khí quốc gia dưới sự bảo trợ của OPEC, có nghĩa là chúng hoạt động như một thực thể duy nhất, do đó làm giảm sự cạnh tranh hoặc cạnh tranh giữa các công ty trong liên minh này. Tuy nhiên, sự cạnh tranh đang ngày càng trở nên gay gắt giữa các các công ty lớn trong ngành, như vấn đề phải thay thế các giếng dầu đang dần cạn kiệt, có một thực tế là việc tìm kiếm và thăm dò các giếng dầu mới ngày càng khó khăn. Điều này cũng đã buộc các nhà sản xuất lớn phải chuyển sang mua lại, sáp nhập và liên minh, như một cách để khắc phục hạn chế cạnh tranh (Weston et al., 2001).
Bên cạnh đó rào cản rời ngành cao giữ các công ty ở lại và cạnh tranh mạnh mẽ đối với các đối thủ, dù có chịu bán mức giá thấp hơn giá trung bình hoặc chịu lỗ. Các yếu tố khác góp phần vào sự cạnh tranh giữa các đối thủ cạnh tranh trong ngành công nghiệp dầu là: chi phi cố định cao (và chi phí lưu trữ) và thiếu sự khác biệt sản phẩm.
à Kết luận: Sự cạnh tranh giữa các đối thủ cạnh tranh trong ngành công nghiệp dầu khí ở mức độ cao, mà phần lớn các công ty đang chạy đua tìm kiếm và khai thác nguồn tài nguyên dầu thô mới. Quá trình này không phải là dễ dàng, các mỏ dầu mới ngày càng khó khăn trong việc tìm kiếm và khai thác đòi hỏi những công nghệ phức tạp và vốn đầu tư cao. Bên cạnh đó các nước xuất khẩu dầu chịu sự ảnh hưởng bởi chính sách hạn chế khai thác, đây là tình hình chung của ngành công nghiệp dầu mỏ toàn cầu. Chính vì điều này sự cạnh tranh ngày càng trở mạnh mẽ hơn, dự đoán một xu hướng tiêu cức ảnh hưởng đến lợi nhuận của các công ty trong tương lai.
3.1.3. Năng lực thương lượng của người mua:
Theo Porter những người mua có thể được xem như một mối đe dọa khi họ yêu cầu giá thấp hơn hoặc yêu cầu dịch vụ tốt hơn (có thể dẫn đến tăng chi phí hoạt động) và ngược lại, khi khách hàng của công ty có thể tăng giá và có lợi nhuận cao hơn. Đối với ngành công nghiệp dầu khí thì giá dầu thô được xác định trên thị trường toàn cầu, dựa trên các mối quan hệ kinh tế giữa nguồn cung cấp dầu và nhu cầu toàn cầu. Giá thế giới  được ấn định trên sàn giao dịch New York Mercantile. Đối với những giao dịch thỏa thuận giữa hai bên, mặc dù giá được thỏa thuận giữa bên bán và bên mua nhưng họ vẫn dựa trên cơ sở giá dầu thế giới (sự chênh lệch là không đáng kể) trong trường hợp này tùy thuộc vào khả năng thương lượng của người mua.
Trong số khách hàng của ngành dầu khí, có những khách hàng lớn như Mỹ, EU, Trung Quốc và Nhật Bản, chiếm hơn một nửa của thế giới tiêu thụ dầu, thực tế họ có thể ở vị trí phát huy được năng lưc thương lượng, bởi vì họ thường mua với số lượng lớn. Mặc dù gần đây, các quốc gia đang áp dụng các chính sách khác nhau để chuyển từ phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch sang năng lượng tái tạo, tuy nhiên thế giới vẫn còn đang phải dựa chủ yếu vào nhiên liệu hóa thạch trong việc đáp ứng nhu cầu năng lượng của trong những năm qua và thập kỷ tới, với nhu cầu trong thực tế dự kiến ​​sẽ tăng (đặc biệt là giao thông vận tải và công nghiệp). Ngày 14/03/2014, Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) thông báo nhu cầu dầu mỏ thế giới sẽ tăng nhanh hơn so với dự báo trước đây do triển vọng kinh tế toàn cầu đã cải thiện. Báo cáo hàng tháng của IEA cho biết nhu cầu dầu mỏ thế giới sẽ lên đến 92,7 triệu thùng/ngày, tăng 95.000 thùng/ngày.
à Kết luận: Trên thực tế cho thấy chỉ có một lượng nhỏ người mua, dựa vào quy mô mua hàng có thể tạo ra khả năng thương lượng trên thị trường. Tuy nhiên sức mạnh người mua đối với ngành công nghiệp này vẫn ở vị thế yếu, vì tầm quan trọng của năng lượng hóa thạch đối với tất cả các lĩnh vực sản xuất và đời sống, là một nhân tố quan trọng cho sự phát triển của ngành công nghiệp thế giới.
3.1.4. Năng lực thương lượng của nhà cung cấp:
Cũng giống như người mua, nhà cung cấp của các công ty dầu khí cũng có thể làm ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngành công nghiệp này trong tương lai bằng cách tăng giá hoặc làm giảm chất lượng của các sản phẩm và dịch vụ mà họ cung cấp. Công ty dầu mỏ lớn như Ecopetrol hoặc ExxonMobil, có một chuỗi cung ứng phức tạp với sự tham gia của nhiều nhà cung cấp khác nhau, từ các nhà cung cấp kỹ thuật, quản lý phát triển mỏ, cài đặt đường ống, thiết bị và vật liệu cụ thể, thậm chí là cung cấp các nhà nghiên cứu khoa học và kỹ sư.
Trong ngành công nghiệp dầu có một loạt các nhà cung cấp phụ đến từ các ngành công nghiệp khác nhau, hầu hết các nhà cung cấp nhỏ này không hợp nhất, và do thực tế là các công ty dầu lớn đại diện cho người mua khối lượng lớn với lợi nhuận cao cho họ à giảm khả năng thương lượng của nhà cung cấp. Các công ty dầu trong thực tế ở vị trí để lựa chọn nhà cung cấp ưa thích với nguồn cung cấp chất lượng cao của vật liệu và dịch vụ.
Một số nhà cung cấp đặc biệt quan trọng không kém đối với ngành dầu khí đó chính là kỹ sư và nhà nghiên cứu khoa học, đây là đội ngũ đem đến những bí quyết, những tiến bộ khoa học kĩ thuật của thế giới cho ngành. Hiện nay, các công ty đang đối với với tình trạng thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao. Do tính chất chu kỳ của kinh doanh dầu khí và tính chất công việc (các nhân viên dầu khí mất khoảng ½ cuộc đời làm việc của mình trên biển và cho việc nghiên cứu, thăm dò) nên các đội ngũ nhân lực chất lượng cao không quan tâm đến ngành, vì thế khả năng thương lượng với các công ty dầu khí cao.
à Kết luận: Bức tranh chung về sự phân bố quyền lực giữa các công ty dầu mỏ là phụ thuộc khá nhiều vào loại nhà cung cấp. Đặc biệt khi nhìn vào các nhà cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao, hay các nhà cung cấp các bằng sáng chế, các kĩ thuật mới…
3.1.5. Các sản phẩm thay thế:
Sản phẩm thay thế cho ngành công nghiệp dầu mỏ bao gồm nhiên liệu thay thế như than đá, khí đốt, năng lượng mặt trời, năng lượng gió, thủy điện và thậm chí cả năng lượng hạt nhân. Hiện nay các nguồn năng lượng “xanh” đang được đầu tư và nghiên cứu để thay thế cho năng lượng dầu mỏ.
Tuy nhiên, dầu là một nguồn năm lượng chiếm ưu thế hiện hành và vẫn không thể thay thế trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong giao thông vận tải và công nghiệp. Không chỉ là trong quá khứ, mà theo hiệp hội năng lượng quốc tế Outlook 2008 (EIA), dầu sẽ ở thành nguồn năng lượng chủ yếu cho đến 2030 (xem biểu đồ dưới). Lý do chủ yếu là trên thực tế dầu rẻ hơn so với các loại nhiên liệu khác. Như công nghệ khoan và khai thác là đắt dỏ nhất trong các giai đọn thì đang được nghiên cứu nhiều nhất có thể làm giảm chi phí trong tương lai, khi đó, dầu là nguồn năng lượng với giá rẻ nhất.
- Từ nghiên cứu về sản phẩm thay thế của dầu mỏ của EIA, dựa trên bảng Thông tin Năng lượng, khí đốt tự nhiên dự kiến sẽ có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn so với dầu. Dự báo được rằng khí sẽ giành được thị phần đáng kể trong lĩnh vực công nghiệp, khu dân cư và thương mại. Tuy nhiên, điều đáng nói là các công ty dầu mỏ lại đi liền với dầu khí do thực tế là dầu khí thường được tìm thấy cùng với nhau. Xu hướng sử dụng dầu khí tăng  nhanh hơn kể từ các nghiên cứu chỉ ra rằng khí tự nhiên phát ra khí C0­­2 ít hơn rất nhiều (ít hơn 40% so với đốt bằng dầu và 78% so với đốt bằng than) à giảm 1 lượng thuế môi trường đáng kể.

                      Biểu đồ 1. Sản lượng sử dụng năng lượng
Tiêu thụ than trên thế giới dự kiến sẽ phải đối mặt với sự giảm sút thị phần của tổng tiêu thụ năng lượng, chủ yếu là do nguồn lực chủ yếu tập trung ở vài quốc gia và đang trở nên ngày càng phức tạp và xa xôi từ các thị trường lớn. Các chi phí khai thác và sử dụng than đá chỉ sẽ tăng trong những năm sắp tới, do các quy định về môi trường, chẳng hạn như Nghị định thư Kyoto (Tuy được kí kết năm 1997 những chính thức có hiệu lực năm 2005).
Năng lượng tái tạo, như gió, thủy điện hoặc hydro được dự kiến sẽ chậm nhưng chắc chắn gia tăng thị phần trong tương lai. Tuy nhiên, không có các chính sách của chính phủ chủ động chính nhằm giảm tác động của khí thải carbon dioxide trong khí quyển, quá trình của việc áp dụng năng lượng tái tạo trên quy mô lớn là có được khá chậm. Vì vậy, miễn là các nguồn năng lượng có chi phí sản xuất khá cao, họ sẽ không thể cạnh tranh về kinh tế nhiên liệu hóa thạch. Tuy nhiên, các công ty dầu không nên đánh giá thấp tiềm năng của các nguồn năng lượng, đặc biệt là sau khi nhiều chính phủ trên thế giới đã tích cực hỗ trợ việc sử dụng các nguồn năng lượng xanh.
Mở rộng năng lượng hạt nhân đã bị đình trệ ở các nước OECD do là một lựa chọn tương đối đắt tiền để phát điện so với các nguồn như khí thiên nhiên hoặc than đá. Ngoài ra, có nhiều phong trào mạnh mẽ chống lại điện hạt nhân ở nhiều nơi trên thế giới, dựa trên những lo ngại về sự an toàn của môi trường, xử lý chất thải phóng xạ, cũng như phổ biến vũ khí hạt nhân. Do đó, năng lượng hạt nhân là nguồn năng lượng thay thế trong tương lai là có vấn đề (EIA, 2008).
à Kết luận: Dựa trên các số liệu trong Biểu đồ 1 về nhu cầu thế giới về năng lượng sẽ tăng cho tất cả các loại năng lượng trong hai thập kỷ tiếp theo. Xăng dầu vẫn còn đang dẫn đầu ngành công nghiệp năng lượng trong những thập kỷ sau, nhưng khi tìm kiếm chuyên sâu cho các nguồn năng lượng thay thế tiếp tục, các nguồn năng lượng thân thiện với môi trường hơn có thể tạo thành một mối đe dọa trong thời gian dài. Vì vậy, các công ty dầu đã cần phải đặt trọng tâm nhiều hơn vào năng lượng tái tạo. Suncor là một trong những ví dụ về các công ty dầu đang dần tăng nghiên cứu và sản xuất nhiên liệu sinh học. 






















ĐỐI THỦ TIỀM TÀNG

Chi phí đầu tư lớn
Chính phủ thì ủng hộ các công ty của quốc gia
à khó khăn cho gia nhập ngành à Mối đe doạ thấp
NHÀ CUNG CẤP
CẠNH TRANH
NGƯỜI MUA
Nguồn nhân lực chất lượng cao; công nghệ, thiết bị
àSức mạnh thương lượng của nhà cung cấp lớn
Liên minh các công ty có sức mạnh lớn.
Sản phẩm đồng nhất, có thể thay thế lẫn nhau
àCạnh tranh cao
Giá dầu được quy định chung trên toàn cầu + lượng cung bị kiểm soát + cầu lớn à sức mạnh thương lượng của người mua thấp

ĐE DOẠ SẢN PHẨM THAY THẾ

Dầu là sản phẩm không thể thay thế hoàn toàn trong ngành công nghiệp và giao thông vận tải bây giờ và trong tương lai
Năng lượng tái tạo là cho một mối đe dọa trong tương lai dài hạn
à Mối đe doạ hiện nay thấp.












3.2. Nhóm ngành:
Nhóm chiến lược bao gồm các đối thủ cạnh tranh có các điều kiện và cách tiếp cận cạnh tranh tương tự nhau trong thị trường.
Nghiên cứu đăc điểm và điều kiện thực tế của ngành thì hai tiêu chí để đánh giá và phân loại các nhóm chiến lược là: Cải tiến  công nghệ và quy mô hoạt động. Hai chỉ tiêu trên được đưa vào lập bản đồ nhóm chiến lược cho các công ty trong ngành dầu khí:

 























- Nhóm 1: Nhóm những công ty  nổi bật nhất trong ngành dầu khí toàn cầu như: Exxon Mobil, Rouyal Dutch, Saudi Aramco, BP, National Iranrian Company, Quata General Petroleum, PDVSA, Iraq National Oil Company,…… chiếm khoảng 70% thị phần dầu khí.  Những công ty này theo đuổi chiến lược cải tiến công nghệ cao và mở rộng quy mô hoạt động ra toàn cầu: hoạt động trải rộng khắp thế giới bao gồm cả thăm dò, sản xuất, tinh chế, phân phối,…và đầu tư một nguồn chi phí rất lớn để sử dụng những cải tiến, ứng dụng mới nhất của công nghệ. Việc đầu tư vào công nghệ mới và quy mô hoạt động rộng rãi tạo thuận lợi cho nhóm những công ty này gia tăng vị thế cạnh tranh của mình. Đồng thời, chiến lược này có thể giúp tối đa hóa các cơ hội của công ty trong tương lai, quản lý chặt chẽ về công nghệ hỗ trợ trong việc tìm kiếm, thăm dò,.. những nguồn dầu lớn trong điều kiện khan hiếm về tài nguyên, kèm theo đó những cải tiến công nghệ là một trong những rào cản nhập cuộc của ngành, giúp các công ty giữ vững vị thế của mình. Đặc biệt, trong nhóm công ty này có Exxon Mobil- là tập đoàn dầu khí đa quốc gia của Hoa Kỳ, hoạt động trên nhiều nước khác nhau, có tổng doanh thu lớn nhất thế giới với 404,5 tỷ USD(2007). Exxon sử dụng những cải tiến công nghệ mới như: tiêm nhiếm nitơ vào các giếng dầu để đẩy dầu và khí tự nhiên lên bề mặt,…Việc chấp nhận đầu tư vào công nghệ đã cho phép Exxon Mobil đạt mức tăng trưởng lợi nhuận 11% trong năm 2008, ở mức lợi nhuận kỷ lục mà các công ty Mỹ đạt được.
- Nhóm 2: Nhóm những công ty có phạm vi hoạt động ở một vùng hoặc một khu vực nhưng luôn theo đuổi và tìm kiếm những cải tiến mới về công nghệ nhằm phục vụ trong quá trình hoạt động của mình. Đây là những công ty được xem là đang trong giai đoạn phát triển của ngành. Điển hình, công ty Suncor được xếp trong nhóm 2 hoạt động nổi trội trong phạm vi khu vực Bắc Mỹ đã bắt đầu sử dụng công nghệ địa chấn 3D để thăm dò các mỏ dầu vào năm 1997 và sau đó cải tiến vào năm 2002. Tiến bộ kỹ thuật khoan ngang cũng được công ty đem vào sử dụng. Những ứng dụng đã đem lại cho Suncor sự tăng trưởng doanh thu hằng và đem lại năng lực cạnh tranh cho công ty.
Thách thức lớn nhất đặt ra cho nhóm này là chi phí đầu tư vào các thiết bị, dàn khoan, nghiên cứu và thăm dò dầu mỏ,.. là rất lớn cùng với sự hạn chế về quy mô hoạt động nên khả năng cạnh tranh trên toàn cầu chưa đủ lớn.
- Nhóm 3: Nhóm những công ty có quy mô hoạt động hẹp ở một quốc gia, ít theo đuổi những cải tiến công nghệ, những công ty này luôn gặp phải những sức ép rất lớn về chi phí đầu tư, thị trường hoạt động.
- Nhóm 4: Nhóm 4: Bao gồm những công ty có quy mô lớn nhưng nghiên về khai thác dựa trên lợi thế về nguồn cung dầu khổng lồ có sẵn hoặc  thuê lại được mà bỏ qua việc nghiên cứu và phát triển công nghệ trong các chu trình. Ví dụ như: Sonangol; SNEPCO; Ariboil; Atlas GeoSolutions; Belmet.
3.3. Chu kỳ ngành:
Hiện nay, ngành dầu khí thế giới đang ở giai đoạn tái tổ chức với những đặc điểm:
- Ngành có xu hướng tăng trưởng chậm lại, tỉ lệ tăng trưởng trung bình của ngành dầu khí thế giới hiện nay đã giảm từ 12% xuống còn 7%/năm.
Description: Global Supply and Demand
                        Biểu đồ thể hiện cung và cầu của dầu khí giai đoạn 1980 – 2010.
- Qua biểu đồ trên có thể thấy, cung dầu không những theo kịp mà còn dư thừa so với nhu cầu, khiến các công ty phải kiểm soát lại số lượng thùng dầu sản xuất hằng năm để tránh gây cuộc chiến về giá do cung vượt cầu.
- Nhu cầu về dầu khí đã bắt đầu có dấu hiệu bị đe dọa giới hạn bởi sự thay thế khi hàng loạt các năng lượng khác được phát minh ra mang tên “năng lượng xanh” như: năng lượng gió, năng lượng mặt trời, năng lượng điện nhiệt, năng lượng nước…và đáng lo ngại hơn là những nguồn năng lượng này được con người quan tâm và ưu tiên hơn dầu khí vì ưu điểm là không gây ô nhiễm môi trường. Theo báo PetroTimes, một khảo sát thí điểm 158 người ngẫu nhiên thì có đến 50% chấp nhận sử dụng nhiên liệu sinh học thay cho nhiên liệu dầu khí.
Các công ty dầu khí trên thế giới cạnh tranh quyết liệt hơn, mở rộng quy mô. Biểu hiện là các cuộc sáp nhập và mua lại diễn ra thường xuyên trên thị trường dầu khí, và điều này khiến cho thế giới xuất hiện những “Big Oil”:
+ Exxon Mobil Corporation: Được thành lập vào tháng 11-1999 bởi cuộc sáp nhập của Exxon và Mobile, và đến thời điểm hiện tại, đây là công ty dầu khí lớn nhất thế giới.
+ Royal Dutch Shell: là kết quả của cuộc sáp nhập 2 công ty Royal Ducth (công ty dầu khí Hà Lan) và Shell (công ty vận tải Anh), trở thành công ty lớn thứ 2 trong ngành công nghiệp dầu khí.
+ BP (công ty dầu khí lớn nhất nước Anh) mua lại các công ty dầu khí Amoco (1998), Arco (2000), Sohio (1987), Castro (2000), Aral (2002) và trở thành công ty dầu khí đứng vị trí thứ 3 thế giới.
+ Chevron mua lại Texaco vào năm 2001, trở thành công ty dầu khí lớn thứ 4 thế giới.
+ Sự hợp nhất của Conoco Inc và công ty Dầu khí Phillips vào năm 2002, hình thành ConocoPhillips – tập đoàn dầu khí lớn thứ 5 thế giới….
- Các chiến lược liên minh, liên doanh trong ngành dầu khí cũng được thực hiện với sự xuất hiện của các tổ chức dầu khí lớn như: OPEC (thành lập năm 1960 với sự tham gia của các quốc gia như Libya, Qatar, Indonesia, Algeria, Nigeria, …), OAPEC (1968) – Tổ chức các nước sản xuất dầu mỏ Ả Rập…
- Các công ty chú trọng hơn vào chiến lược thâm nhập thị trường mới và tranh giành thị trường với các đối thủ của mình.
Cơ hội:
- Giai đoạn tái tổ chức của ngành dầu khí hiện nay giúp các công ty tiếp tục tăng trưởng năng lực của mình theo tốc độ tăng trưởng trong quá khứ. Từ việc sử dụng tốc độ tăng trưởng của quá khứ để dự đoán mức dầu khí tiêu thụ trong tương lai và lập kế hoạch sản xuất một cách thích ứng.
- Sự ganh đua và tranh giành thị phần cũng như nguồn nguyên liệu diễn ra mãnh liệt giúp các công ty mạnh có thể thâu tóm thị trường của đối thủ, mở rộng để tăng lợi nhuận, đồng thời, làm cho các công ty dầu khí nhỏ phải bỏ cuộc chơi, loại bớt đối thủ cạnh tranh.
Đe dọa:
- Sự xuất hiện ngày càng nhiều của các nhiên liệu thay thế trong giai đoạn hiện nay là một đe dọa lớn cho các công ty trong ngành. Nó làm cho nhu cầu dầu khí mặc dù vẫn tăng đều hằng năm nhưng tỉ lệ tăng thì giảm rõ rệt, trong khi tỉ lệ nhu cầu các nguồn nhiên liệu thay thế (gió, mặt trời, nước, điện nhiệt, sinh học…) lại có xu hướng tăng nhanh.
- Các công ty dầu khí tiến hành mua lại, sáp nhập, liên minh…tạo nên các tập toàn, các tổ chức dầu khí rất lớn, thành các ông vua trong ngành, có thể điều chỉnh, chi phối mạnh đến cả thị trường dầu khí thế giới, điều này gây khó khăn cho các công ty dầu khí nhỏ, và họ khó có cơ hội để vươn lên.
- Sự ganh đua giữa các ông vua dầu khí về nguồn nguyên liệu và thị phần có thể là mối đe dọa cho cuộc chiến tranh về giá, điều này sẽ khiến các công ty dầu khí hoạt động kém hiệu quả phải phá sản. (Ví dụ: công ty dầu khí OGX của Barazil đã bị phá sản vào cuối năm 2013 do hoạt động kém hiệu quả…)
3.4. Động thái của đối thủ:
Như đã phân tích ở các phần trên, trong một ngành các công ty hoạt động không chỉ đơn lẽ một mình mà xung quanh còn rất nhiều đối thủ cũng cùng tham gia vào ngành đó. Do vậy, để thành công trong ngành công ty phải luôn theo dõi động thái, cũng như hoạt động của đối thủ để đánh giá rồi dự kiến những bước đi tiếp theo của họ và từ đó có cách thức để cạnh tranh được với các đối thủ đó.
Trong ngành dầu khí hiện nay, có những công ty tham gia có thể kể đến là: Exxon Mobil, Chevron Corporation, Petrobras,…
a. Công ty chevron corporation:
* Phân bố thị trường:
Là một công ty năng lượng đa quốc gia của Mỹ. Trụ sở chính tại San Ramon, California. Hoạt động tại nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là tại các khu vực như: bờ biển phía tây bắc của Bắc Mỹ, Nigeria, Angola, Kazakhstan, và Vịnh Mexico, Đông Nam Á, Hàn Quốc, Úc và Nam Phi.
* Những hoạt động chính của Chevron Corporation gần đây:
Thực hiện dự án khí đốt GORGON tại Tây Úc với tổng giá trị lên tới 43 tỉ USD. Dự án bao gồm việc xây dựng một nhà máy khí tự nhiên hóa lỏng trên đảo Barrow và nhà máy khí nội địa với khả năng cung cấp 300 terajoules mỗi ngày để cung cấp khí đốt cho Tây Úc.
Trong các khu vực trên bờ và ngoài khơi gần của đồng bằng sông Niger, Chevron hoạt động theo một liên doanh với Tổng công ty Dầu khí quốc gia Nigeria, điều hành và tổ chức quan tâm 40% trong 13 ưu đãi trong khu vực. Chevron hoạt động giếng địa nhiệt ở Indonesia cung cấp điện cho Thủ đô Jakarta và các vùng lân cận, và các kế hoạch để có khả năng mở một cơ sở địa nhiệt 200 MW ở Nam Sumatra. Công ty có kế hoạch chi ít nhất $ 2000000000 nghiên cứu và mua lại liên doanh năng lượng tái tạo.
b. Exxon Mobil: 
- Là một trong những công ty dầu khí lớn nhất thế giới, luôn dẫn dầu trong việc phát triển những sản phẩm mới thông qua việc cải tiến công nghệ liên tục và độc quyền một số phát minh công nghệ để củng cố vị trí hàng đầu trong ngành của công ty.
Các hoạt động của công ty trong những năm gần đây:
- Công ty định xu hướng dài hạn của ngành: đầu tư vào khu vực châu Á – Thái Bình Dương và mở rộng thị trường ra vùng Trung Đông.
- Exxon Mobil cho biết công ty sẽ tiếp tục theo đuổi việc đầu tư hàng tỷ đô la cho các dự án dài hạn hứa hẹn sẽ đem lại kết quả trong nhiều thập kỷ.
- Gần đây, Exxon Mobil bán lại một nhà máy lọc dầu ở California và 340 cửa hàng mang thương hiệu Exxon cho Valerp Energy Corp.
- Năm 2008, công ty tách ra khỏi thị trường bán lẻ và nhượng quyền thương hiệu 1400 đại lý phân phối.
- Năm 2010, công ty tiến hành khai thác và sản xuất khí tự nhiên hóa lỏng nổi. Điều này không những giúp Exxon giảm thiểu về chi phí mà còn chứng tỏ được tầm ảnh hưởng lớn của công ty trong ngành.
c. Công ty Petrobras:
Petrobras là công ty dầu khí đa quốc gia lớn nhất tại châu Mỹ Latinh được thành lập vào năm 1953 và là người dẫn đầu thế giới về việc sử dụng công nghệ trong thăm dò, khai thác dầu mỏ ở những vũng dầu khổng lồ cực sâu như ở Tây Phi, Vịnh Mexico,... Petrobras kiểm soát nguồn năng lượng đáng kể ở 18 quốc gia ở châu Phi, Bắc Mỹ, Nam Mỹ, châu Âu và châu Á. Công ty hoạt động rộng rãi với việc mua lại và kiểm soát một số công ty năng lượng quan trọng nhất ở Nam Mỹ. Đến cuối 2003, Petrobras đăng ký Hiệp ước toàn cầu của Liên Hợp Quốc về việc thỏa thuận các nguyên tắc liên quan đến điều kiện làm việc và môi trường. Hành động này đã mang lại sự uy tín cho công ty và giúp công ty gia tang vị thế cạnh tranh của mình.
3.5. Những nhân tố then chốt trong thành công của ngành:
Các nhân tố then chốt cho thành công (nhân tố tác động mạnh nhất tới khả năng thành đạt trên thị trường là điều kiện tiên quyết cho thành công trong ngành).
a. Công nghệ:
Dầu khí mặc dù là 1 kiểu ngành về khai khoáng nhưng điểm đặc biệt là yếu tố công nghệ quyết định hầu hết đến các công đoạn trong ngành, quyết định trực tiếp đến chi phí, tổng sản lượng khai thác và tinh chế được. Trên thực tế, các các công nghệ hàng đầu đang được các công ty dầu khí lớn nắm giữ. Ví dụ Rosneft - Công ty dầu mỏ lớn nhất Liên bang Nga và là một trong những công ty dầu mỏ lớn nhất thế giới đã bỏ ra 28 tỉ USD trong vòng 8 năm để tìm ra như kỹ thuật “Nén xuyên địa tâm” cho phép thăm dò, tìm kiếm và tổ chức khai thác được các giếng dầu ở các vùng biển đóng băng ở Bắc Cực, nơi mà trước đó chưa từng có công ty nào tham gia khai thác[3]. Nghiên cứu này đem lại cho Rosneft lợi thế về nguồn cung dầu lớn gấp 3 lần so với trước đây[4]. Hay tập đoàn Exxon Mobil của Hoa Kỳ là tổ chức đâu tiên áp dụng công nghệ vệ tinh Aperture Radar[5] cho phép thăm dò địa chất thông qua hình ảnh được cung cấp từ vệ tinh để phân tích, từ đó có thể tìm được các giếng dầu cũng như thông tin về độ sâu, trữ lượng và hệ thống địa chất nhằm phục vụ mục đích thăm dò và khai thác à giảm chi phí tìm kiếm và thăm dò xuống 23% so với các kỹ thuật trước đó.
Trong tinh chế dầu mỏ, kỹ thuật và công nghệ được xem là bước khởi đầu cho 1 dự án lọc dầu. Trên thực tế, có khá nhiều quốc gia có sản lượng dầu mỏ lớn nhưng họ chủ yếu khai thác và xuất  khẩu dầu thô chứ không thể tự chế biến các sản phẩm cuối cùng như xăng dầu nhiên liệu … vì không có công nghệ như Nigeria (quốc gia có trữ lượng dầu mỏ xếp hàng đầu thế giới, cung cấp khoảng 10% lượng dầu thô nhập khẩu ở Mỹ); Algeria (Nguồn thu chủ yếu của quốc gia này là từ việc xuất khẩu dầu thô. hằng năm ngành này đóng góp 70% tổng GDP và chiếm 97 % mặt hàng xuất khẩu của đất nước) hay Lybia có lẽ là quốc gia duy nhất ở Châu Phi có nền kinh tế phụ thuộc rất lớn vào dầu thô, hằng năm ngành xuất khẩu dầu đóng góp đến 80% tổng GDP và 97% tổng lượng xuất khẩu.
Ngược lại, các quốc gia lớn nghèo tài nguyên nhưng có hàng chục công ty lớn chuyên về dầu mỏ như Mỹ (Exxon Mobil), Nhật Bản (Idemitsu; Chiyoda Corporation; JGC Corporation) hay Trung Quốc (PetroChina); nắm giữ 65% tổng bằng sáng chế, bản quyền, phát minh trong lĩnh vực dầu khí trên toàn cầu (2010).

b. Tài chính:
Đặc trưng thứ 2 của ngành dầu khí là lượng dầu tư khổng lồ bất chấp tham gia vào toàn bộ chuỗi của dầu khí (từ thăm dò, khai thác, tinh chế, phân phối) hay là 1 trong chúng. Nguồn đầu tư không những vào trang thiết bị, cơ sở hạ tầng mà còn ở mua lại các bằng sáng chế, phát minh công nghệ và đầu tư cho nguồn nhân lực chất lượng cao. Hầu hết các công ty về dầu mỏ lớn đều có 1 nguồn đầu tư lớn ngay từ ban đầu. Chevron tiêu tốn hết 10 tỉ USD cho những dự án ngoài vùng tức những chương trình bất ngờ, đầu tư ngoài kế hoạch như theo đuổi xây dựng 1 toà nhà thông minh ngay trên giếng dầu ở Dubai. Công ty dầu mỏ hoàng gia Hà Lan Shell đầu tư trung bình 44 tỉ USD/năm và tăng 10% hằng năm. Một nhóm bao gồm Exxon và Shell có kế hoạch chi  40 tỉ USD để bơm dầu từ hòn đảo nhân tạo ở biển Caspian[6]. Tất cả các chương trình, dự án của dầu mỏ để tiêu tốn 1 lượng vốn khổng lồ mà chỉ khi được đáp ứng ngay lập tức mới đem lại lợi thế cho 1 công ty trong ngành.
c. Nguồn cung dầu:
Trong khi nhu cầu về năng lượng và nguyên nhiên liệu liên qua tới dầu khí tăng cao, lượng cung dầu lại khá hạn chế ở 1 số quốc gia. Các quốc gia sở hữu 1 lượng lớn dầu như  Ả rập Saudi (trữ lượng dầu mỏ : 264,5 tỷ thùng);  Venezuela với 211,1 tỷ thùng; Iran với 150, 31 tỷ thùng; Iraq (trữ lượng dầu mỏ : 115 tỷ thùng); Canada (gần 100 tỷ thùng); Kuwait (trữ lượng dầu mỏ : 104 tỷ thùng)[7] cho phép các chính phủ này tổ chức các công ty, tập đoàn dầu khí quốc gia lớn nhằm tập trung thăm dò và khai thác lượng tài nguyên này trong lãnh thổ quốc gia. Chúng không có sức ép về nguồn cung giống như các công ty tương tự đến từ Mỹ, Nhật Bản hay Trung Quốc luôn khó khăn trong nguồn dầu vào là dầu thô. Đồng thời, chính sản lượng dầu mỏ lớn đem lại lợi thế cạnh tranh theo quy mô lớn, có khả năng dẫn dắt thị trường, đồng thời là cơ hội để họ thu hút vốn, công nghệ từ bên ngoài.
4. Kết luận về thay đổi môi trường|
Các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô của ngành dầu khí đang có xu hướng thay đổi rất tích cực cho ngành dầu khí phát triển, cụ thể là các khuynh hướng:
- Kinh tế phát triển nhanh hơn
- Luật pháp có nhiều điều khoản ưu tiên cho phát triển ngành dầu khí.
- Môi trường được cải thiện
Các điều kiện thuận lợi ở thời điểm hiện tại lẫn xu hướng phát triển trong tương lai của Canada chính là bàn đạp vững chắc để Suncor hướng mình ra hoạt động bên ngoài với mục tiêu và viễn cảnh đã đề ra là trở thành 1 trong 30 công ty lớn nhất thế giới trong ngành dầu khí.

 



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét