PHẦN 2
PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG BÊN NGOÀI
2.1.
Môi trường toàn cầu:
* Xu hướng toàn cầu hóa:
Xu
hướng tiêu thụ bia và các đồ uống có cồn chuyển dịch từ các nước Châu Âu sang
các nước Châu Á đặc biệt là các thị trường mới nổi.
Ở
Trung Quốc và Ấn Độ cũng như những thị trường nhở hơn ở Đông Nam Á như
Singapore, Thái Lan, Việt Nam, uống bia đang trở thành một thói quen phổ biến
do thu nhập ngày càng tăng và giới trẻ đang có xu hướng thích không khí tiệc
tùng.
Công ty nghiên cứu thị trường Euromonitor
International cũng cho rằng Châu Á là khu vực tiêu thụ nhiều bia nhất trên toàn
cầu, với mức tăng trưởng trung bình hằng năm là 8% trong giai đoạn năm
2003-2007.
Trong mười năm đầu của thế kỷ 21, kinh tế
thế giới đã chứng kiến tốc độ toàn cầu hóa sâu rộng và nhanh chóng. Sự hình
thành các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực, các khu vực mậu dịch tự do, các
hiệp định song phương và đa phương đã xóa bỏ các rào cản thương mại, rào cản sản
xuất và rào cản về vốn, tăng khả năng tiếp cận dễ dàng với các nguồn lực trên
thế giới và gia tăng dòng chảy quốc tế về vốn, hàng hóa và dịch vụ.
Toàn cầu hóa đã thúc đẩy thương mại quốc tế
tăng trưởng mạnh, là điều kiện cơ sở để nhiều quốc gia đặc biệt là những nước
đang phát triển có cơ hội tận dụng vốn từ bên ngoài để tạo nên những bước đột
phá về kinh tế xã hội.
* Xu hướng thay đổi trong tiêu dùng:
Xu thế phụ nữ uống bia tại các nước phát
triển và các nền kinh tế mới nổi đang được lan truyền mạnh mẽ. Phụ nữ quan tâm
nhiều đến các loại bia có nồng độ cồn thấp có chất lượng cao để tăng cường sức
khỏe. Nghiên cứu của Mỹ ở các nước phát triển và các thị trường mới vào năm
2002 đã chỉ ra rằng: Phụ nữ ở các nước này rất hiếm khi sử dụng bia, khoảng 3%.
Đến năm 2006, theo một cuộc khảo sát của tập chí Women’s Health thì con số này
đã tăng lên đến 11%, phụ nữ tại các nước này liệt kê bia như là thức uống hàng
đầu của họ.
Công
ty nghiên cứu thị trường cho biết rằng khách hàng quan tâm đến mức giá thấp của
các thức uống ngày càng giảm dần và quan tâm nhiều hơn hơn đến chất lượng và uy
tín của thức uống. Hay nói cách khác xu hướng tiêu dùng của khách hàng là sẵn
sàng trả với mức giá cao để có được những sản phẩm có chất lượng và đảm bảo sức
khỏe.
*Xu hướng mua lại và sáp nhập( M&A):
Giai đoạn 2000-2007, trước tình hình nền
kinh tế thế giới có nhiều bất ổn, khủng hoảng và suy thoái diễn ra thường xuyên
thì hoạt động M&A được xem như một cáh thức tốt để các công ty tiếp tục mở
rộng thị trường, giảm thiểu các chi phí và rủi ro.
Xu hướng M&A đã tăng cao và đạt đỉnh điểm
vào năm 2000. Những lợi ích mà M&A mang lại có thể kể đến như: khả năng tiếp
cận với những dòng sản phẩm mới, thâm nhập nhanh chóng vào những thị trường hay
những ngành công nghiệp mới, giảm bớt chi phí và thu hẹp số lượng các đối thủ cạnh
tranh, phát triển thị phần, tiếp cận với công nghệ, năng lực sản xuất tiên tiến
hay các nhà cung cấp mới trên thị trường toàn cầu. Trước một nền kinh tế bấp
bênh, những lợi ích mà M&A mang lại càng thúc đẩy các công ty tham gia tích
cực vào xu hướng này để tìm kiếm lợi nhuận cho công ty mình.
Hơn nữa, năm 2005 nước Đan Mạch thông qua
luật thương mại cho phép các công ty nước ngoài có thể mua lại hoặc sáp nhập
thông qua trao đổi cổ phần mà không áp đặt đánh thuế tại thị trường Đan Mạch. Kết
quả là sự thâm nhập của các đối thủ mạnh từ bên ngoài đang tạo sức ép cạnh
tranh đối với các công ty bia trong ngành.
Từ năm 2000 đến 2007, giá dầu trên thế giới
tăng chóng mặt, từ 10USD/ thùng lên 95USD/ thùng. Giá dầu tăng dẫn đến chi phí
nguyên liệu và sản xuất, vận hành tăng liên tục. Nó đã tác động không nhỏ đến
các công ty bia trên toàn cầu.
Bên
cạnh đó, do biến đổi khí hậu, mùa màng thất bác, nguyên liệu trở nên ít dần
trong khi nhu cầu sử dụng bia vẫn tăng. Điều này đã đẩy giá của các nguyên liệu
sản xuất bia như lúa mạch, hoa bia… tăng mạnh. Giá mạch nha năm 2007 đã tăng gấp
đôi so với năm 2005, đạt 700USD/tấn. Tác động của sự tăng giá nguyên, nhiên liệu
đã dẫn đến một loạt công ty lớn trong ngành bia tuyên bố tăng giá bia.
Cơ hội
|
Đe dọa
|
|
Môi trường toàn cầu
|
- Xuất hiện thêm phân khúc thị trường mới.
- Lượng cầu tăng.
- Mở rộng quy
mô ra phạm vi toàn cầu.
|
- Toàn cầu hóa là một thách thức cạnh tranh, sự đe dọa
của các đối thủ tiềm tàng muốn gia nhập ngành, sự lấn sân của các tập đoàn đa
quốc gia.
- Gánh chịu chi phí lớn để xử lý chất thải và phải
liên tục cải tiến chất lượng để đáp ứng
nhu cầu mới.
|
2.2 Môi trường vĩ mô:
2.2.1. Môi trường kinh tế:
Đan
Mạch là nước công nghiệp phát triển, có nền kinh tế thị trường tư bản hỗn hợp,
cạnh tranh cao với chế độ phúc lợi lớn. Nền kinh tế Đan Mạch là một trong 10 nền
kinh tế hiệu quả nhất thế giới với mức thu nhập bình quân đầu người thuộc diện
cao nhất thế giới. Do chi phí trả lương cho người lao động cao 39,29 USD/một giờ
cho một công nhân - một con số cao nhất thế giới, nên lĩnh vực chế tạo tương đối
chuyên sâu và cần ít lao động. Nền kinh tế thị trường công nghiệp hóa của đất
nước phụ thuộc vào nhập khẩu nguyên liệu thô và thương mại quốc tế. Lạm phát
duy trì ở mức thấp 1,7% và mức độ tăng trưởng GDP là 3,5%. Các ngành kinh tế thế
mạnh của Đan Mạch gồm vận tải biển, cơ khí đóng tàu, xây dựng cảng biển, chế tạo
thiết bị năng lượng, xi măng, công nghiệp dược, chế biến thủy sản và thực phẩm,
sản xuất và sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, năng lượng gió và năng lượng
tái tạo, lĩnh vực môi trường và công nghệ xanh - sạch, lĩnh vực thiết kế công
nghiệp và hàng tiêu dùng. Các công ty Đan Mạch chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ;
nhiều công ty có thương hiệu nổi tiếng thế giới do trình độ chuyên môn hóa cao,
có tầm nhìn và phạm vi hoạt động toàn cầu, điển hình gồm Tập đoàn AP Moller -
Maersk (vận tải biển), Carlsberg (bia, đồ uống), Công ty Danfos và Grundfos (sản
xuất thiết bị điều hòa nhiệt độ và máy bơm), Công ty dược Nouvo Nordisk,
Lundbeck, Scandinavian Tobaco Company, Vestas Wind Systems (tuabin gió),
Danisco (chế biến thực phẩm); FLSmith (xi măng), Lego (sản xuất đồ chơi),…
Đan
Mạch là thành viên của Liên minh châu Âu (EU), pháp luật và các quy định của
Đan Mạch phù hợp với các tiêu chuẩn của EU về hầu hết các vấn đề. Đan Mạch được
hưởng một mức sống cao và nền kinh tế Đan Mạch được đặc trưng bởi các biện pháp
phúc lợi của chính phủ mở rộng và phân phối công bằng của thu nhập. Đan Mạch là
một nước xuất khẩu lương thực và năng lượng và được hưởng một sự cân bằng thoải
mái thặng dư thanh toán mà phụ thuộc vào nhập khẩu nguyên liệu cho các ngành sản
xuất. Trong EU, Đan Mạch là một trong những người ủng hộ mạnh nhất của tự do
hóa thương mại. Sau khi một xu hướng đi lên tiêu thụ theo định hướng lâu dài, nền
kinh tế Đan Mạch đã bắt đầu chậm lại trong năm 2007 với sự kết thúc của một sự
bùng nổ nhà ở. Giá nhà đất đã giảm đáng kể trong năm 2008-2009 và sau một thời
gian nghỉ ngơi ngắn trong năm 2010, kể từ đó đã tiếp tục giảm. Cuộc khủng hoảng
tài chính toàn cầu đã làm trầm trọng thêm suy thoái theo chu kỳ này thông qua
tăng chi phí vay và nhu cầu xuất khẩu thấp hơn, niềm tin tiêu dùng và đầu tư.
Các cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu cắt giảm GDP thực tế của Đan Mạch trong
năm 2008-2009. Đan Mạch đã hồi phục khiêm tốn trong năm 2010 với tốc độ tăng
trưởng GDP thực tế 1,3%, một phần là do tăng chi tiêu chính phủ, tuy nhiên, đất
nước đã trải qua một cuộc suy thoái kỹ thuật vào cuối năm 2010-đầu năm 2011. Mức
thấp lịch sử của tỷ lệ thất nghiệp tăng mạnh với suy thoái kinh tế và đã duy
trì ở mức khoảng 6% trong 2010-2012, dựa trên các biện pháp quốc gia, khoảng
hai phần ba tỷ lệ thất nghiệp trung bình của EU. Một sự suy giảm sắp xảy ra với
tỷ lệ người lao động về hưu sẽ là một vấn đề lớn trong dài hạn. Đan Mạch duy
trì thặng dư ngân sách lành mạnh trong nhiều năm đến năm 2008, nhưng cân đối
ngân sách đong đưa vào thâm hụt ngân sách trong năm 2009. Mặc dù thâm hụt ngân
sách, chính phủ liên minh mới đưa ra một gói kích thích khiêm tốn cho nền kinh
tế trong năm 2012. Tuy nhiên, tình hình tài chính của Đan Mạch vẫn là một trong
những nước mạnh nhất trong Liên minh châu Âu với nợ công ở mức khoảng 45% GDP
vào năm 2012.
2.2.2. Môi trường chính trị pháp luật:
Ngành công nghiệp bia được chính phủ
kiểm soát chặt
chẽ bởi các quy định phân phối rộng rãi về nhãn hiệu, quảng
cáo, tín dụng, giá cả, nội dung có cồn, thuế suất, và xử lý chất thải.
- Chính phủ áp đặt một mức thuế suất rất cao và liên tục
tăng với ý định để giảm lạm dụng. Nhà nước định giá đối với việc phân bổ giá giữa
các nhà sản xuất bia và bán buôn. Tuy nhiên mức thuế này vẫn còn thấp hơn so với
quy định của chính phủ Anh và Phần Lan.
- Chính phủ cũng có rất nhiều quy định phân phối bia. Bia
chỉ được phép thông qua từ nhà sản xuất đến nhà phân phối rồi đến bán lẻ. Với mục
đích giảm kiểm soát của nhà sản xuất bia qua các nhà bán lẻ và đảm bảo hiệu quả
thu thuế. Ngoài ra, nó là bất hợp pháp để vận chuyển bia trên đường, điều này đã
dẫn đến một mạng lưới phân phối rất nhiều phân mảnh. Sự độc đáo của hệ thống
này cũng là một trong những rào cản lớn đối với thị trường nhập khẩu bia Đan Mạch.
- Các công ty bia đang liên tục chiến đấu cho quyền quảng
cáo dưới áp lực ngăn ngừa vị thành niên uống rượu. Luật pháp Đan Mạch cấm bất cứ
ai dưới 21 tuổi tiêu thụ rượu và nhà sản xuất bia đến quảng cáo cũng vậy.
2.2.3. Môi trường
văn hoá, xã hội:
Trong 5 năm qua, ngành công nghiệp bia có sự thay đổi
theo xu hướng xã hội và nhân khẩu học, đặc biệt là thay đổi trong hành vi tiêu
dùng. Theo một khảo sát gần đây, khảo sát 1300 người tiêu dùng cho 12 lọai bia
thấy hai xu hướng chính:
- Người tiêu dùng
đã giảm mức tiêu thụ bia do chế độ ăn uống và vấn đề sức khỏe. Hơn 50% mong muốn
giảm cân bằng cách giảm lượng carbohydrates. Những người trả lời thường chuyển
sang rượu, mạch nha, hương vị thức uống có cồn và các đồ uống khác. Xu hướng
này phù hợp với quan sát thấy rằng nhiều người tiêu thụ rượu vang với kỳ vọng lợi
ích sức khỏe. Đây là một phần dựa trên tuyên bố nghịch lý Pháp nổi tiếng “một lối
sống không lành mạnh dinh dưỡng có thể được bù đắp bằng khẩu phần vang đỏ hàng
ngày”. Nghiên cứu khoa học thực sự đã chỉ ra rằng, trái ngược với bia và rượu mạnh,
tiêu thụ trung bình của rượu vang có thể giảm nguy cơ tim mạch và các
mortalities. Thị trường rượu vang toàn cầu đã tăng lên đáng kể trong thập kỷ
qua.
- Người tiêu dùng bia có xu hướng đi ra ngoài ít hơn. Hơn
20% số người uống bia giảm tiêu thụ bia bởi nền kinh tế yếu và lý do tài chính
khác. Tuy nhiên, nhu cầu mới lạ và tinh tế đã được tăng lên.
Mặt khác, xu thế phụ nữ uống bia tại các nước phát triển và các nền kinh tế
mới nổi đang được lan truyền mạnh mẽ. Họ không uống bia một cách một cách vô tội
vạ như nam giới mà chỉ uống một lượng vừa phải và quan tâm nhiều đến các loại
bia có nồng độ cồn thấp có chất lượng cao để tăng cường sức khỏe. Nghiên cứu của
Mỹ ở các nước phát triển và các thị trường mới đã chỉ ra rằng: Trong năm 2009
chỉ có 6% phụ nữ tại các nước này liệt kê bia như là thức uống hàng đầu của họ,
tuy nhiên con số này tại thời điểm tháng 5/2011 đã là 27% một tốc độ tăng đáng
kinh ngạc.
2.2.4. Môi
trường nhân khẩu học:
Dân số Đan Mạch năm 2000 là 5.336.394 và được dự báo sẽ
giảm xuống còn khoảng 5.200.000 vào năm 2025. Tuổi thọ trung bình khi sinh đã
tăng lên, nhưng đáng chú ý là tuổi thọ cho nam giới và phụ nữ ở Đan Mạch vẫn
còn thấp hơn so với tất cả các nước láng giềng, đặc biệt là đối với phụ nữ
(trong năm 1999 tuổi thọ bình quân của phụ nữ là 78,3; trong khi ở Mỹ nó là
80,1). Tốc độ tăng trưởng dân số tổng thể đã được thống nhất ở mức thấp 0,31%.
Dân số Đan Mạch là rất đồng nhất. Đến năm 2000, 97% là
người Đan Mạch (dân tộc Scandinavi), và phần còn lại là người Inuit (Eskimo),
Tiếng Faroe, và Đức. Tỷ lệ người cao tuổi trong dân số ngày càng tăng là tốt, với
kết quả là vào năm 2000 chỉ có 18% là dưới 14 và 15% là trên 65 tuổi.
Dân số đô thị hóa cao, với khoảng 85% sống ở các thành phố.
Tuy nhiên, mật độ dân số thấp hơn so với những nơi như Hoa Kỳ và các nước châu
Âu xa hơn về phía nam. Điều đáng chú ý là để được phân loại là "đô thị"
ở Đan Mạch, con số chỉ cần 250 người (so với Hy Lạp, trong đó "đô thị"
được định nghĩa là một khu định cư là 10.000 hoặc nhiều hơn).
2.2.5. Môi
trường công nghệ:
Đan Mạch là một nước có trình độ
công nghệ cao trong hầu hết các lĩnh vực: công nghệ vi sinh, năng lượng mới,
công nghệ nano, công nghệ môi trường, công nghệ dây chuyền, công nghệ đánh giá
rủi ro mới. Sự đầu tư và cam kết của chính phủ trongnhững năm qua vào lĩnh vực
nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ đã mang lại các kết quả đáng kể.
-
Công nghệ
vi sinh: Công nghệ lên men phát triển mạnh: Có thể
thấy 1 trường hợp khá rõ đó là việc ra đời phương pháp lên men mới lạ của
Heiliger giúp rút ngắn thời gian lên men, tăng tuổi thọ của men bia, giảm nguy
cơ nhiễm khuẩn và chất lượg hương vị bia được tăng lên đáng kể.. .đã tác động mạnh
đến ngành sản xuất bia
Công nghệ
vi sinh còn được sử dụng trong quá trình tái chế các chất thải, nguyên vật liệu
dư thừa, đặc biệt sau quá trình lên men rượu bia, để tạo xăng dầu sinh học, tái
chế nước.
- Công nghệ vật liệu mới: Theo tính toán của các nhà khoa
học thì thời gian phân hủy của lon bia là 50-100 năm, vỏ chai thủy tinh là 1
triệu năm. Việc sử dụng các sản phẩm này đang làm cho môi trường xấu đi và chi
phí xử lý tăng cao. Với sự ra đời của vỏ lon ECO Can, không chỉ được làm bằng vật
liệu có thể tái sự dụng, nếu bị thải ra môi trường, ECO Can sẽ tự phân hủy hoàn
toàn. ECO Can có thể đựng 280ml dung dịch lỏng hoặclạnh và giữ nhiệt rất lâu nhờ
vào cấu trúc 2 lớp giữ nhiệt của nó. Đặc biệt, ECO Can có thể tái sử dụng nhiều
lần nhờ vào nắp trên có thể tháo rời để rửa sạch và châm thêm nước. Ngoài ra,
việc sử dụng phụ gia tự hủy để làm chai thủy tinh cũng được xem xét. Với ECO
Can và tương lai là chai thủy tinh tự hủy, các công ty sẽ tiết kiệm được chi
phí thu mua tái chế vỏ lon bia, giảm chi phí sản xuất đồng thời bảo vệ được môi
trường.
Kết luận: Nhận diện các cơ hội và đe dọa tác động đến công ty từ các khuynh hướng của
môi trường vĩ mô:
Khuynh hướng
|
Cơ hội
|
Đe dọa
|
-Tình hình thế giới nhiều biến động, với sự khan
hiếm của nguồn nguyên vật liệu
|
·
Tiềm năng phát triển của ngành
bia thế giới vẫn rất khả quan
·
Xu hướng
tiêu dùng các nhãn hiệu bia có thương hiệu toàn cầu
·
Khả năng tiếp cận các thị trường mới đầy triển
vọng
|
·
Môi trường cạnh tranh mang tính toàn cầu, đầy khốc
liệt
·
Sự khắt khe hơn về các quy định và luật thuế của
các Chính phú đối với ngành bia rượu.
·
Sự biến động của giá cả và khan hiếm nguy cơ
nguyên vật liệu
|
-Sự thu hút mạnh mẽ của các sự
kiện thể thao , giải bóng đá mang tính châu lục và toàn cầu
|
||
-Sự vươn lên của thị trường
Trung Quốc và châu Á
|
||
-Dân số già hóa, tỷ lệ tăng
dân số cao
|
||
-Xu hướng sáp nhập và mua lại
trên toàn cầu đang ngày càng phát triển
|
||
-Sự thay đổi về xu hướng tiêu dùng và sở thích của
khách hàng.
|
2.3. Phân
tích ngành và cạnh tranh:
2.3.1. Đặc
điểm và chu kỳ ngành:
Theo ICB, bia là phân ngành cấp 3 thuộc phân ngành Đồ uống
trong ngành hàng tiêu dùng. Trong đó, ngành đồ uống được chia làm hai loại: Đồ
uống có cồn như bia, rượu và Đồ uống không cồn như nước ngọt, nước khoáng, nước
trái cây … Phân ngành bia được định nghĩa « bao gồm các công ty sản xuất và
phân phối đồ uống chế xuất từ lúa mạch như bia và bia đen ».
Bia là một trong những sản phẩm đồ
uống chiếm tỷ trọng thị phần cao nhất trong lĩnh vực công nghiệp sản xuất đồ uống
trên toàn cầu. Ngành bia bao gồm tất cả các công ty cung ứng các loại bia trên
thị trường, gồm các công ty địa phương và trên toàn cầu ( các nhà bán buôn, bán
lẻ, sản xuất…).
Danh mục các sản phẩm hàng đầu của
hang bia Carslberg có thể kể đến: Turborg, Baltika, Jacosben Vintage, Holsten,
Okcoim… và đặc biệt là Carlsberg.
a. Mô tả ngành:
- Quy mô và tốc độ tăng trưởng: Trong hoạt
động công nghiệp, ngành bia được đánh giá là có hiệu quả kinh tế cao so với các
ngành khác. Trong đó, tính theo chuyên ngành thì sản xuất bia có lợi nhuận cao
nhất. Hơn nữa, ước tính ngành bia phát triển rất nhanh, sản lượng tăng đột biến
bình quân 13,11% mỗi năm.
- Khách hàng: Bao gồm những người tiêu dùng cuối cùng,
các chủ quán rượu, đại lí phân phối.
- Ranh giới địa lý: Ngành bia không chỉ bó hẹp trong phạm
vi một nước mà mở rộng ra thị trường xuất khẩu. Ngành đồ uống là ngành mang
tính toàn cầu.
- Nhà cung cấp: Ngành bia là một trong những ngành kinh
doanh đặc thù, đòi hỏi vốn đầu tư rất cao, bởi nhà sản xuất sau khi bán sản phẩm
thì thu hồi vỏ chai để tái sử dụng. Họ phải đầu tư một khoản kinh phí khá lớn
cho vỏ chai, nếu không quản lý được việc thu hồi, sử dụng lại thì doanh nghiệp
sẽ bị thất thoát về vốn. Hơn nữa còn chịu sự phụ thuộc rất lớn và nguồn cung cấp,
bao gồm: nguyên vật liệu (lúa mạch, hoa Hulbon, men), bí quyết công nghệ, máy
móc thiết bị, nhân công,…
- Đối thủ cạnh tranh: các công ty tham gia vào ngành đồ uống
ở Đan Mạch như AB InBev, Heineken N.V, SABMiller plc và Carlsberg….Đây đều là
những công ty có thương hiệu mạnh đối với khách hàng trong nước và cả nước
ngoài, có ảnh hưởng trực tiếp đến thị phần và khả năng cạnh tranh của nhau.
- Phương thức cạnh
tranh: Cạnh tranh bằng giá nhờ dẫn đầu về chi phí thấp và khác biệt hóa sản phẩm.
b. Sức hấp dẫn của ngành:
Do mặt hàng bia phải chịu thuế
tiêu thụ đặc biệt nên hầu hết các địa phương đều mong muốn có nhà máy bia để
tăng thu ngân sách. Xu hướng bùng nổ tăng công suất và mua bán sáp nhập nhằm tận
dụng cơ sở vật chất, thương hiệu sản phẩm đã diễn ra sôi động trong ngành sản xuất
bia. Và cho đến nay, hoạt động đầu tư vẫn tiếp tục được tăng tốc nhằm đáp ứng
yêu cầu của thị trường, đồng thời khai thác được hiệu quả kinh
doanh rất lớn. Những điều này cho thấy, ngành bia là một ngành hấp dẫn.
Để đánh giá cụ thể về tính hấp dẫn của ngành bia, chúng
tôi sẽ tiến hành phân tích dựa trên 3 phương diện. Thứ nhất là mức độ đe dọa của
mô hình 5 lực lượng cạnh tranh. Thứ 2, thực hiện phân tích nhóm chiến lược và
thứ 3, phân tích chu kỳ ngành.
2.3.2. Phân
tích mô hình năm lực lượng cạnh tranh:
a. Các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng:
Đối thủ cạnh tranh tiềm tàng của ngành bia Đan Mạch là: Các công ty đã có những hiểu biết
về ngành và có thể mở rộng công ty họ để gia nhập vào ngành này nếu nhận thấy
ngành có nhiều tiềm năng phát triển trong tương lai; họ còn là các công ty bia
đa quốc gia ( nhập khẩu) muốn thâm nhập vào thị trường bia, vì thế ảnh hưởng lớn
đến ngành bia Đan Mạch nói chung và Carlsberg nói riêng. Họ đang sử dụng nhiều
chiến lược sắc bén thâm nhập và làm chủ thị trường bia nội địa bằng cách sát nhập,
mua lại để mở rộng và thay đổi diện mạo cho một trong những ngành công nghiệp
manh mún nhất của nước này.(số liệu năm 2004). Ngoài ra các công ty mới cũng có
khả năng nhập cuộc vào ngành. Những công ty sản xuất nước giải khát, các công
ty sản xuất sữa, trà, bánh kẹo, công ty đường có nhiều điều kiện thuận lợi hơn
khi nhập cuộc vào ngành bia.
Ngành bia là ngành có rào cản nhập cuộc thấp vì lòng
trung thành của khách hàng với các nhãn hiệu bia đang có hiện có ở Đan Mạch là
không cao. Và chi phí chuyển đồi của khách hàng gần như là bằng “0”. Để thâm nhập
vào ngành này, các đối thủ tiềm tàng phải đối mặt với: Vượt lên sự trung thành nhãn hiệu của khách hàng đối với các thương hiệu
đã có
-Một số thương hiệu bia nổi tiếng trong nhành như Heineken, Tasingtao Brewery, SAB Miller, Carlsberg,
Carlsberg,…đã tạo dựng cho mình một chỗ đứng bền vững trong lòng khách hàng với
hình ảnh là thương hiệu cung cấp các thức uống chất lượng, độc đáo. Trong đó, Carlsberg
là một thương hiệu bia hàng đầu về chất lượng.
- Các sản phẩm của Carlsberg có sự cam kết về dinh
dưỡng cao luôn đáp ứng tốt nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Những sản phẩm
của Carlsberg đã có danh tiếng, quen thuộc với khách hàng là ưu tiên hàng đầu,
vì thế các sản phẩm mới, chưa có danh tiếng rất khó trong cạnh tranh.
Lợi thế chi phí tuyệt đối:
Yêu cầu về vốn: Yêu cầu về vốn cần thiết để vào các ngành
công nghiệp đồ uống có cồn là một lợi thế cho các công ty hiện nay trong ngành
công nghiệp này. Người ta ước tính rằng chi phí để xây dựng một nhà máy có khả
năng sản xuất 4triệu- 5triệu thùng mỗi năm là khoảng 250 triệu USD. Ngoài ra, số
lượng các nhà máy bia truyền thống đã giảm đều đặn từ năm đầu tiên của kỷ lục
trong năm 1947 với 421-20 vào năm 2006.
Kinh nghiệm trong quản trị các yếu tố sản xuất như lao động,
vật liệu, máy móc… và quản trị doanh nghiệp đã tạo ra lợi thế về chi phí cho
công ty. Các mối quan hệ với các đối tác, các nhà cung cấp lâu năm cũng là một
lợi thế của công ty, những người nhập cuộc sẽ rất khó khăn trong tiếp cận, giao
dịch.
Những chi phí cao của hoạt động và chi phí xây dựng hoạt
động như một rào cản nhập cuộc cho các công ty đang xem xét để cạnh tranh trong
ngành công nghiệp này.
Tính kinh tế của quy mô:
Các công ty trong ngành có qui mô lớn, phân bố rộng nên tận
dụng được lợi thế chi phí về nguyên liệu, sản phẩm, doanh thu, nên những chính
sách về giá, sản phẩm của họ có thể linh hoạt và mạnh hơn về mặt tài chính. Đây
là một thách thức đối với các đối thủ tiềm tàng
è Kết luận:
Lực đe dọa của các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng có xu hướng yếu đi.
b. Cạnh
tranh giữa các công ty trong ngành:
Các
công ty trong ngành luôn luôn cạnh tranh lẫn nhau và mức độ cạnh tranh trong
ngành phụ thuộc vào ba yếu tố: cấu trúc ngành, nhu cầu của ngành, các rào cản rời
ngành.
v Cấu trúc ngành
Ngành
bia là ngành công nghiệp manh mún nhất ở TQ. Trung Quốc hiện có khoảng 500 đến
1000 nhà sản xuất bia, con số chính xác chưa ai thống kê được. Hai nhãn hiệu nổi
tiếng và có quy mô lớn nhất là Tsingtao và
Guangdong Kingway nhưng chưa hãng nào có được sức mạnh trong toàn quốc. Ngoài
ra còn có Great Wall, Green Wall, Green Bamboo, Golden Lion, Golden Lotus,
Brigade Light và hàng trăm hãng khác. Tuy nhiên những hãng này chỉ như các lãnh
chúa cát cứ trong khu vực của mình do thị trường bị chia nhỏ cho quá nhiều hãng
bia, hệ thống phân phối yếu kém và thiếu chiến lược quảng cáo rầm rộ. Như
vậy cấu trúc ngành bia ở Trung Quốc phân tán mạnh. Do đó, đây là ngành công
nghiệp có rào cản nhập cuộc thấp là một đe dọa lớn đối với công ty hiện có
trong ngành.
Lấy
ví dụ tại nước Việt Nam
gần như mỗi tình thành đều có công ty bia riêng. Có thể kể dến Halida, bia Hà Nội,
Đại Việt (Hà Nội) ;Huda, Festival (Huế); Tubor; Kaiser, 999 (Hải Phòng); Vida
(Nghệ An); Sladex (Quảng Bình); Con Gấu (Quảng Trị); Sông Hàn, La Rue (BGI) (Ðà
Nẵng); Larger (Quảng Nam); Dung Quất, Special (Quảng Ngãi); Lowen (Bình Ðịnh);
Vinage, San Miguel (Khánh Hoà); La Rue (Tiền Giang); Sài Gon (T.P Hồ Chí Minh).
Trên
thế giới, tại mỗi quốc gia cung có những hãng bia nổi tiếng riêng của mình.
Chính vì thế thị truờng bia toàn cầu vẫn là một thị truờng bia manh mún với quá
nhiều thị khúc dù cho trị giá của nó là hon 150 tỉ euro. Ðứng đầu mỗi phân khúc
là một thương hiệu bia. Theo Impact Databank thì Budweiser, "kẻ" tự
xung mình là "vua các loại bia" thực ra cung chỉ nắm duợc có 3,6% thị
truờng bia thế giới. Vì 9 trong số 10 lon bia mà Budweiser tiêu thụ duợc là ở
trên lãnh thổ Mỹ. Ðáng chú ý hơn nữa, tổng số 20 thương hiệu bia hàng dầu thế
giới cộng lại cũng chỉ chia nhau nắm giữ khoảng hơn 1/4 thị truờng bia toàn cầu
mà thôi.
v Tình hình nhu cầu
Đánh
giá một cách khách quan thì thị trường bia Trung Quốc vô cùng rộng lớn.
Các hãng bia quốc tế sẽ có rất nhiều ưu thế khi đặt chân vào ngành sản xuất bia
không chỉ vì người dân Trung Quốc đang hướng tới một xã hội hưởng thụ, chuộng
hàng ngoại mà công nghiệp bia Trung Quốc chưa đánh thức được tiềm năng và công
suất thực sự của mình. Stephen J Burrows - chủ tịch Hội đồng quản trị công ty
bia Anheuser-Busch International Inc cho biết họ loại bia Budweiser của họ bán
được hơn 2 triệu thùng hay 2,38 triệu lít ở Trung Quốc. Trung Quốc hiện là thị
trường tiêu thụ bia lớn nhất trên thế giới nhưng có tỷ lệ bình quân đầu người rất
thấp, chỉ 18,5 lít/người. Với dân số 1,3 tỷ người, thị trường bia vẫn còn rất rất
nhiều khoảng trống, và còn nhiều cơ hội phát triển.
v Rào cản rời ngành
Nhóm
chỉ xét riêng rào rời ngành với riêng công ty bia Carlsberg : Rào cản về công
nghệ, vốn đầu tư là rất lớn vì hiện này Carlsberg có 20 nhà máy sản xuất bia tại
bảy tỉnh ở TQ. Ràng buộc với người lao động: Carlsberg có tơi 7.600 nhân viên tại
TQ với số lượng nhân viên lớn như vậy thì việc rút lui khởi ngành của công ty
dương như là không thể.
c. Năng lực
thương lượng của nhà cung cấp:
Nguyên
liệu để sản xuất bia bao gồm: malt (lúa mạch), hoa Hupblon, men, gạo, và nước. Malt:
là một hạt ngũ cốc gọi là lúa mạch (chiếm 70%). Tuy nhiên, thị trường lúa
mì thế giới nói chung gần đây đã diễn ra theo huớng cung không đủ cầu. Cho nên
năng lực thương lượng của nhà cung cấp lúa mạch là rất lớn. Họ có khả năng ép
giá hoặc có thể cung cấp lúa mạch với chất lượng không đảm bảo. “Theo Hiệp hội
Ngũ cốc quốc tế, trong vụ năm 2003-2004, sản luợng lúa mỳ thế giới liên tục giảm
xuống mức 580 triệu tấn, 566 triệu tấn và đến nay chỉ còn 548 triệu tấn. Trong
khi dó, nhu cầu của thế giới vẫn đang ở mức cao, năm 2003-2004, tổng mức cầu là
601,6 triệu tấn, năm nay có giảm nhưng không đáng kể 589,4 triệu tấn. Ðiều này
cho thấy sức mạnh thương lượng nhà cung cấp là ngày càng cao, mang lại nhiều
khó khăn cho các công ty trong ngành. Men: là chất xúc tác có nguồn gốc
prôtêin, đó là những phân tử có cấu tạo từ axit amin và có cấu trúc không gian
xác định của mạch polypeptit. Tác dụng xúc tác là nhờ các quá trình lên men. Đó
là những quá trình trong đó xảy ra sự thay đổi thành phần hoá học của chất gây
ra do kết quả hoạt động của các vi sinh vật nào đó (ví dụ men rượu, nấm hoặc vi
khuẩn).Trong những trường hợp này, những chất men do vi sinh vật tạo ra là những
yếu tố hoạt động xúc tác. Chất men vẫn giữ được tính hoạt động và khả năng tác
dụng của nó khi lấy nó ra khỏi vi sinh vật. Mỗi loại men có một hương vị riêng.
(không tìm thấy thông tin nhà cung cấp). Hoa Hupblon: dùng để tạo vị đắng cho
bia. Có 2 loại Hupblon là: Hupblon bittermiss và Hupblon Aroma. Cả 2 loại này đều
phải được bảo quản ở nhiệt độ dưới 10oC để giảm độ mất mát của - axit.
Trên cây Hupblon người ta thường dùng hoa của cây để tạo vị đắng cho bia vì hoa
của cây Hupblon có vị đắng nhiều hơn. Cây Hupblon là một loại dây leo, thích hợp
khí hậu ôn đới, được trồng nhiều ở Anh, Mỹ nền nguồn cung cấp hoa Hupblon là rất
ít. Dẫn đến năng lực thương lượng là rất cao.
Theo
các nhà phân tích, động lực phía sau việc các hãng bia tìm cách thâu tóm các đối
thủ là nhằm mở rộng phạm vi kinh doanh. Nhà phân tích Kris Kippers của hãng môi
giới Petercam tại Bỉ cho hay, việc sáp nhập không chỉ tạo ra mạng lưới phân phối
rộng lớn, mà còn mang lại cho các hãng này một lợi thế lớn khi mua nguyên liệu.
"Nếu mua khối lượng nguyên liệu lớn, giá cả có thể sẽ khác, nhất là khi
giá đại mạch và hoa hublông (nguyên liệu làm men bia) đang tăng chóng mặt",
ông này nói.
d. Năng lực
thương lượng của người mua:
Người
mua của công ty của ngành là khách hàng cuối cùng hoặc là các siêu thị, các đại
ly phân phối, các cựa hàng bán lẻ, các nhà hàng, khách sạn. Các siêu thị và nhà
hạng, khách sạn thường đặt mua với khối lượng lớn nên họ có năng lực thương lượng
cao. Buộc công ty phải chiết khấu giá. Người mua của ngành bia có chi phí chuyển
đổi rất thấp, hơn nữa ngành bia lại là ngành có cấu trúc phân tán với rất nhiều
công ty lớn và nhỏ, do đó nó kích thích các công ty trong ngành cạnh tranh lẫn
nhau dẫn đến giá thấp. Vì vậy : năng lực thương lượng của người mua trong ngành
bia là mạnh.
e. Sản phẩm
thay thế:
Những
sản phẩm thay thế là những sản phẩm của các ngành mà phục vụ những nhu cầu
khách hàng tương tự như đối với ngành đang phân tích. Các công ty trong ngành
bia cạnh tranh trực tiếp với các công ty trong ngành rượu, ngành nước giải
khát. Vì tất cả các ngành này này đều phục vụ cho nhu cầu uống của khách hàng.
Thông thường so với rượu và nước giải khác thì bia thường có giá cao hơn. Do đó
đối với người có thu nhập thấp họ thường dùng sản phẩm thay thế cho bia. Hơn
nưa khi thời tiết trở nên quá lạnh thì khách hàng có xu hương chuyển từ uống
bia sang uống rượu hoặc trà, cà phê. Hơn nữa, chính phủ các nước đánh thuế rất
cao thức uống có cồn làm hạn chế việc tiêu thụ sản phẩm bia.
Các lực lượng cạnh tranh
|
Lực đe dọa
|
Khả năng nhập cuộc của ĐTCT tiềm tàng
|
Trung
bình
|
Năng lực thương lượng của người mua
|
Cao
|
Năng lực thương lượng của nhà cung cấp
|
Trung
bình
|
Đe dọa của sản phẩm thay thế
|
Thấp
|
Mức độ cạnh tranh trong ngành
|
Cao
|
2.3.3. Nhóm chiến lược:
- Nhóm chiến lược 1: Bao gồm các công ty Heineken, AB Inbev và Carlsberg.
Đây là các công ty luôn không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, và lấy TQM là
mục tiêu hàng đầu. “Một lít bia hoàn hảo được ẩn chứa sau một ly thủy tinh hoàn
hảo”. Triết lý TQM đã được vận dụng trong Carlsberg. CARLSBERG khẳng định rằng:
"Khi Carlsberg đặt ra những tiêu chuẩn của mình sản xuất bia trong thế kỷ
18, ông bắt đầu một cam kết chất lượng trong
tiêu chuẩn đó tiếp tục cho đến ngày hôm nay trong tất cả các nhà máy bia
của Carlsberg. Hôm nay, một trong những khẩu hiệu được sử dụng trong Carlsberg
là: 'Mỗi công việc là một chân dung của người hoàn thành nó. Sự cam kết của bạn
với Chất lượng '. Toàn bộ quá trình, từ lựa chọn lúa mạch để tiêu thụ khách
hàng, là một nỗ lực của nhóm mà đòi hỏi 'chữ ký của từng thành viên của đội ngũ
nhân viên. Hơn nữa, 3 công ty này
còn thiết lập mạng lưới tiêu thụ toàn cầu, trở thành các công ty bia đa quốc
gia nổi trội.
- Nhóm chiến lược
2: Bao gồm các công ty Tsingtao, Ashahi, Grupo Mondelo,…Đây là các công ty chưa có được tên tuổi trên thế giới.
Thị phần của các công ty này có phần khiêm tốn so với nhóm trên ở thị trường nội
địa và cả trên toàn cầu, cùng với mức chất lượng thấp hơn.
2.3.4. Chu kỳ ngành:
Lịch sử ngành bia thế giới:
Những loại bia đầu tiên: Hầu hết các loại ngũ cốc có chứa một
lượng đường nhất định, lượng đường này giúp các loại ngũ cốc có thể tự lên men
do nấm men tự nhiên trong không khí, có thể các đồ uống giống bia đã được phát
triển độc lập trên khắp thế giới ngay khi một bộ tộc một nền văn hóa có được
ngũ cố thuần hóa. Thử nghiệm hóa học các bình gốm cổ cho thấy rằng bia đã được
làm từ khoảng 5500 năm trước tại vùng đất hiện nay là Iran, và quá trình lên
men bia cũng là thử nghiệm sinh học đầu tiên được con người thực hiện. Ngoài ra
những phát hiện khảo cổ học gần đây cho thấy người dân Trung Quốc đã ủ những đồ
uống có cồn lên men vào khoảng 7000 năm TCN trên quy mô nhỏ lẻ, với quá trình sản
xuất và phương pháp tương tự như ở Ai Cập và Lưỡng Hà cổ đại. Bia trở nên quan
trọng đối với tất cả các nền văn minh trồng ngũ cốc ở Á-Âu và Bắc Phi cổ đại, gồm
cả Ai Cập-do đó năm 1868, James Death đưa ra một thuyết có tên gọi Bia của Kinh
thánh cho rằng thực phẩm từ thiên đường mà Chúa ban cho dân Israelite là loại
bia giống cháo yến mạch, dựa trên bánh mì có tên gọi wusa.
- Cuộc cách mạng công nghiệp: Sau những cải tiến đáng kể về hiệu suất động cơ hơi nước vào
năm 1765, ngành công nghiệp bia đã hình thành. Các cải tiến mới trong quá trình
sản xuất bia đã diễn ra với sự ra đời của nhiệt kế vào năm 1760 và phù kế vào
năm 1770, cho phép các nhà sản xuất tăng hiệu quả và giảm tổn hao trong quá
trình sản xuất.
Thời kỳ trước cuối
thế kỷ 18, mạch nha chủ yếu được sấy khô bằng lửa do đốt gỗ, than củi, rơm rạ,
và tới năm 1600 là dùng thêm than cốc.
Nói chung, các
loại mạch nha được sấy khô theo phương thức đốt này sẽ bị ám khói, do đó những
loại bia thời kỳ đầu thường có mùi vị khói; có nhiều bằng chứng cho thấy người
nấu bia đã cố gắng hết sức để hạn chế khói ám vào bia thành phẩm.
Phù kế đo độ biến đổi của bia được ủ.
Trước khi có phù kế, bia được ủ từ một loại mạch nha duy nhất: bia màu nâu từ mạch
nha màu nâu, bia màu hổ phách từ mạch nha màu hổ phách, bia màu nhạt từ mạch
nha màu nhạt. Khi có phù kế, người nẫu bia có thể tính được hiệu suất từ các loại
mạch nha khác nhau. Họ quan sát thấy mạch nha nhạt, dù đắt hơn, nhưng chất lên
men lại nhiều hơn so với mạch nha rẻ tiền. Ví dụ, mạch nha nâu (dùng cho bia
Porter – một loại bia đen) cho 54 pound chiết xuất mỗi quarter, trong khi mạch
nha vàng nhạt cho tới 80 pound. Khi đã biết điều này, người ủ bia chuyển sang
chủ yếu dùng mạch nha màu nhạt để nấu tất cả các loại bia, sau đó họ bổ sung
thêm một lượng nhỏ mạch nha có màu đậm hơn để đạt được màu đúng cho các loại
bia sẫm màu hơn.
Năm 1817, Daniel
Wheeler phát minh ra lò nướng hình trống đã cho phép tạo ra các loại mạch nha
rang có màu rất sẫm, góp phần tạo nên hương vị cho bia đen và bia nâu nặng. Việc
phát triển này đã được nhắc đến trong một đạo luật Anh năm 1816 cấm việc sử dụng
bất kỳ các thành phần khác ngoài mạch nha và hoa bia. Những người nấu bia đen lại
chủ yếu dùng mạch nha nhạt, nên họ cần khẩn cấp một loại giải pháp hợp pháp để
cho bia có màu sẫm hơn. Sáng chế của Wheeler là một giải pháp như vậy.
Việc Louis
Pasteur phát hiện ra vai trò của men trong quá trình lên men vào năm 1857 đã
giúp người nấu bia có phương pháp sản xuất để ngăn bia chua do các vi khuẩn gây
hại.
- Bia hiện đại:
Bia là một thức uống đặc biệt quan trọng ở các nước như Bỉ, Đức, Áo, Ireland,
và Anh; với các quốc gia như Pháp, các nước Bắc Âu, Ba Lan, Cộng hòa Séc, Tây
Ban Nha và các nước khác có truyền thống sản xuất bia độc đáo và lâu bền với lịch
sử của riêng họ, các phương pháp sản xuất bia đặc trưng và nhiều loại bia khác
nhau. Ở một số nơi trên thế giới, nhà máy bia bắt đầu như một ngành kinh doanh
gia đình ở Đức, những người di dân Châu Âu khác đã biến nó thành những công ty
lớn, sau đó vi lợi nhuận những người đứng đầu công ty ít quan tâm tới chất lượng
truyền thống của các loại bia, dẫn tới một sự xuống cấp của sản phẩm. Các nhà
máy bia hiện đại giờ sản xuất nhiều loại bia khác nhau, từ các loại bia cổ như
bia lambic lên men một cách tự nhiên của Bỉ; bia vàng, bia đen, bia trắng (bia
lúa mì) và nhiều loại khác của Đức; các loại bia ale như stout, mild, pale,
bitter, golden của Anh; các loại bia mới của Mỹ như Chili Beer, Cream Ale và
Double India Pale Ales
Ngày nay, ngành
công nghiệp sản xuất bia là một ngành công nghiệp toàn cầu rất lớn, bao gồm một
số công ty đa quốc gia, và hàng ngàn các nhà sản xuất nhỏ khác nhau, từ các
quán bia nhỏ tới các nhà máy bia vùng. Những tiến bộ trong việc làm lạnh, vận
chuyển xuyên lục địa và quốc tế, tiếp thị và thương mại có kết quả trong một thị
trường quốc tế, nơi người tiêu dùng có hàng trăm sự lựa chọn giữa các loại bia
khác nhau của địa phương, vùng, quốc gia và nước ngoài.
Phân tích chu kỳ ngành
Công
ty nghiên cứu thị trường Euromonitor International cũng cho rằng châu Á là khu
vực tiêu thụ nhiều bia nhất trên toàn cầu, với mức tăng trưởng trung bình hàng
năm là 8% trong giai đoạn năm 2003 đến năm 2008. trong khi đó ở Châu Âu, Nhật Bản,
các tập đoàn sản xuất bia chịu cảnh doanh số tụt giảm.
Dự
báo của các nhà quản lí điều hành trong ngành giải khát thì xu hướng sẽ là: “Lúc đầu, mọi người bắt đầu
uống bia rồi sau đó chuyển sang rượu vang và rượu mạnh". (Edward Chia,
giám đốc điều hành của quán Timbre ,
Singapore ).
Khủng hoảng kinh tế đã làm
cho lượng cầu bia giảm đáng kể kèm theo đó là các chính sách về thuế của chính
phủ đã làm cho cạnh tranh giữa các hãng bia càng khốc liệt hơn. Nhu cầu giảm
cùng với đó các hãng bia phải gánh chịu một lượng chi phí khá lớn từ thuế làm
cho nhiều hãng phải cắt giảm chi phí, hạn chế sản xuất và sáp nhập lại với nhau
để tăng sức mạnh cạnh tranh, điều này dẫn đến trong thời gian này số lượng công
ty sản xuất bia ở Đan Mạch giảm đáng kể.
Lượng cầu giảm
làm các doanh nghiệp có sự điều chỉnh cung, tác động tới doanh số bán:
Năm 2007 –
2009: doanh số bán bia tại Đan Mạch năm 2009 giảm 4,2% trong năm 2009 sau khi
giảm 11% trong năm 2008. Doanh số hồi phục trong quý 4/2009, mức giảm doanh số
chỉ là 3,6%, mức giảm thấp nhất tính từ năm 2006.
Năm 2010: Trong năm 2010, doanh số bán bia giảm hơn 4%, giảm
ít hơn so với năm trước.
+ Các rào cản
nhập cuộc tăng lên, và đe dọa nhập cuộc từ các đối thủ tiềm tàng giảm: các đối
thủ tiềm tàng muốn gia nhập vào ngành phải vượt qua rào cản nhập cuộc lớn, bao
gồm sức mạnh của những thương hiệu trong ngành,
tính kinh tế theo qui mô của những doanh nghiệp lớn
+ Các công ty
không duy trì tốc độ tăng trưởng quá khứ nữa, mà giữ thị phần của họ.
+ Các công ty
bắt đầu tập trung vào cả cực tiểu hóa chi phí và tạo sự trung thành nhãn hiệu.
Đây là giai đoạn
mà hầu hết các ngành cố gắng tạo độc quyền nhóm để tạo nên sức mạnh chung. Các
công ty bia lớn tiến hành sáp nhập, lien doanh hay thâu tóm lẫn nhau để có thể
đứng vững trong thị trường này. Và Carlsberg cũng không ngoại lệ.
è Những xu thế cho thấy thị
trường bia ở Châu Âu nói chung, cụ thể tại Đan Mạch đang trong giai đoạn bão hòa. Đây là xu thế tất yếu
khi nhu cầu thay đổi, các sản phẩm thay thể có khả năng đáp ứng cao hơn.
a. Sự thay đổi xu
hướng tiêu dùng của xã hội:
Xu thế phụ nữ uống bia tại các nước phát
triển và các nền kinh tế mới nổi đang được lan truyền mạnh mẽ. Họ không uống
bia một cách một cách vô tội vạ như nam giới mà chỉ uống một lượng vừa phải và
quan tâm nhiều đến các loại bia có nồng độ cồn thấp có chất lượng cao để tăng
cường sức khỏe
Toàn cầu hóa:
Carlsberg không ngừng nâng cao và cải tiến hoạt động sản
xuất của mình thông qua việc đầu tư vào công nghệ và các dây chuyền sản xuất để
tạo ra năng suất cao. Công ty đã có những chiến lược mua lại, hay liên doanh với các công ty có
dây chuyền sản xuất hiệu quả.
KẾT LUẬN VỀ SỨC HẤP DẪN CỦA NGÀNH:
Từ những phân tích trên
ta thấy ngành sản xuất bia ở Đan Mạch khá hấp dẫn đối với các công ty trong
ngành nhưng lại không mấy hấp dẫn đối với những người muốn gia nhập mà rào cản
chính là sức mạnh về thương hiệu của các công ty hiện tại quá lớn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét